169.NGÀY 26 THÁNG 5 NĂM 1828
Tài năng ngẫu nhiên, tài năng uổng phí
Cuộc đời ơi cho tôi để làm gì?
Hay tại bởi số mệnh đầy huyền bí
Mà cuộc đời đem kết tội cho tôi?
Có ai đấy bằng quyền uy thù nghịch
Đã gọi tôi từ trong cõi hư vô
Trong hồn tôi dù say mê mãnh liệt
Nhưng đầu tôi hồi hộp mối nghi ngờ.
Trước mắt tôi giờ chẳng còn mục đích
Con tim hoang vu, trí tuệ biếng lười
Nỗi buồn chán đang làm tôi mỏi mệt
Chỉ còn cô đơn tiếng vọng cuộc đời.
1828
Дар напрасный, дар случайный
Дар напрасный, дар случайный,
Жизнь,
зачем ты мне дана?
Иль зачем
судьбою тайной
Ты на
казнь осуждена?
Кто меня
враждебной властью
Из
ничтожества воззвал,
Душу мне
наполнил страстью,
Ум
сомненьем взволновал?..
Цели нет
передо мною:
Сердце
пусто, празден ум,
И томит
меня тоскою
Однозвучный
жизни шум.
1828
170.ĐÔI MẮT NÀNG*
Nàng dễ thương – giữa chúng mình nói nhỏ –
Là bão giông của những chàng hiệp sĩ
Có thể đem đôi mắt đẹp của nàng
Đặc biệt bằng thơ đem ra so đọ
Đôi mắt Xiếc cát xi** với sao phương
nam.
Đôi mắt này nàng biết cách làm chủ
Ánh lửa cháy lên sống động tuyệt vời
Nhưng, hãy thừa nhận, một điều đã rõ
Đôi mắt Olenina yêu dấu của tôi!
Thiên thần trầm tư trong đôi mắt này
Có biết bao khoảng bao la trẻ nhỏ
Có biết bao thể hiện đầy ủy mị
Và bao nhiêu hạnh phúc, bao ước mơ
Cúi xuống như nụ cười nữ thần Lelya –
Vẻ đẹp khiêm nhường lên ngôi trong đó
Ngước lên là thiên thần của Raffaello
Chỉ thánh thần mới ngắm nhìn như thế.
1828
___________
*Đây là bài thơ mà Puskin đáp trả lại
bài thơ “Đôi mắt đen” của Pyotr Vyazemsky (1792 – 1879) nói về đôi mắt của
Aleksandra Osipovna Smirnova – Rosset (1809 – 1882). Puskin cũng thừa nhận đôi
mắt của Rosset “là bão giông của những chàng hiệp sĩ” và so sánh nó với những
ngôi sao phương Nam. Nhưng ở trong đôi mắt của Anna Alekseevna Olenina (1808 –
1888), người tình của Puskin thì có những vẻ đẹp khác và nụ cười sánh ngang với
nữ thần Lelya hay thiên thần của Rafaello.
** Xiếc cát xi (Circassians hay
Adyghe) – một dân tộc ở vùng Kapkage (Liên Xô cũ); Lelya (Lyalya) – là nữ thần
sắc đẹp của người Đông Slavơ; Raffaello Sanzio (1843 – 1520) – họa sĩ và kiến
trúc sư nổi tiếng người Ý.
Её глаза
Она мила — скажу
меж нами —
Придворных
витязей гроза,
И можно с южными
звёздами
Сравнить,
особенно стихами,
Ее черкесские
глаза.
Она владеет ими
смело,
Они горят огня
живей;
Но, сам
признайся, то ли дело
Глаза Олениной
моей!
Какой задумчивый
в них гений,
И сколько детской
простоты,
И сколько томных
выражений,
И сколько неги и
мечты!..
Потупит их с
улыбкой Леля —
В них скромных
граций торжество;
Поднимет — ангел
Рафаэля
Так созерцает
божество.
1828
171.BẰNG CON TIM TÔI BAY TÌM NETTY*
Bằng con tim tôi bay tìm Netty
Ở Tver, ở Moskva –
Còn R và O tôi quên bẵng
Vì N và W kia.
1828
______________
*Netty – tức là Anna Nikolaevna Vulf
(1799 – 1857). Puskin làm quen với Anna Vulf năm 1825.
**R – là Aleksandra Osipova Smirnova-Rosset
(1809 – 1882) – bạn của Puskin; O – là Anna Alekseevna Olenina (1808 – 1888) –
người yêu của Puskin; N W tức Netty Vulf (Anna Wulf – tiếng Đức).
За Netty сердцем я летаю
За Netty сердцем я летаю
В Твери, в Москве
-
И R и О позабываю
Для N и W.
1828
172.NGÀY 19 THÁNG 10 NĂM 1828
Đã cầu nguyện thành tâm cùng Thượng Đế
Và đã hoan hô hò hét với trường
Tạm biệt nhé, bạn bè, tôi lên đường
Còn các bạn đã đến lúc đi ngủ.
_____________
*Bài thơ viết trong ngày họp nhau kỷ niệm những ngày học ở trường Lyceum. Ngay sau buổi họp mặt này Puskin phải đi đày về Mikhailovsk.
19 октября 1828
Усердно
помолившись богу,
Лицею прокричав
ура,
Прощайте, братцы:
мне в дорогу,
А вам в постель
уже пора.
173.BUỔI SÁNG MÙA ĐÔNG
Băng giá dưới mặt trời
Sao còn ngủ em ơi
Thức dậy đi người đẹp
Em mở mắt tuyệt vời
Thành ngôi sao phương Bắc
Chào bình minh phương Bắc.
Mới chiều qua bão giông
Trời mờ đục sương giăng
Mặt trăng như vết ố
Chiếu xuyên qua mây vàng
Và em ngồi u buồn
Giờ… hãy nhìn ra cửa:
Dưới bầu trời xanh thắm
Tuyệt vời như trải thảm
Tuyết mênh mông trên đồng
Rừng quang dần đen thẫm
Thông xanh qua lớp sương
Sông dưới băng lấp lánh.
Đầy phòng màu hổ phách
Tiếng củi nổ đì đùng
Bếp lò kêu răng rắc.
Nằm suy nghĩ trong chăn.
Nhưng không biết có nên
Gióng ngựa vào xe trượt.
Lướt trên tuyết tinh sương
Thả hồn theo vó ngựa
Những bước chân vội vã
Để thăm cánh đồng hoang
Thăm lại những cánh rừng
Và bến bờ yêu quí.
Sao còn ngủ em ơi
Thức dậy đi người đẹp
Em mở mắt tuyệt vời
Thành ngôi sao phương Bắc
Chào bình minh phương Bắc.
Mới chiều qua bão giông
Trời mờ đục sương giăng
Mặt trăng như vết ố
Chiếu xuyên qua mây vàng
Và em ngồi u buồn
Giờ… hãy nhìn ra cửa:
Dưới bầu trời xanh thắm
Tuyệt vời như trải thảm
Tuyết mênh mông trên đồng
Rừng quang dần đen thẫm
Thông xanh qua lớp sương
Sông dưới băng lấp lánh.
Đầy phòng màu hổ phách
Tiếng củi nổ đì đùng
Bếp lò kêu răng rắc.
Nằm suy nghĩ trong chăn.
Nhưng không biết có nên
Gióng ngựa vào xe trượt.
Lướt trên tuyết tinh sương
Thả hồn theo vó ngựa
Những bước chân vội vã
Để thăm cánh đồng hoang
Thăm lại những cánh rừng
Và bến bờ yêu quí.
1829
Зимнее утро
Мороз и солнце;
день чудесный!
Еще ты дремлешь, друг прелестный —
Пора, красавица, проснись:
Открой сомкнуты негой взоры
Навстречу северной Авроры,
Звездою севера явись!
Вечор, ты помнишь, вьюга злилась,
На мутном небе мгла носилась;
Луна, как бледное пятно,
Сквозь тучи мрачные желтела,
И ты печальная сидела —
А нынче… погляди в окно:
Под голубыми небесами
Великолепными коврами,
Блестя на солнце, снег лежит;
Прозрачный лес один чернеет,
И ель сквозь иней зеленеет,
И речка подо льдом блестит.
Вся комната янтарным блеском
Озарена. Веселым треском
Трещит затопленная печь.
Приятно думать у лежанки.
Но знаешь: не велеть ли в санки
Кобылку бурую запречь?
Скользя по утреннему снегу,
Друг милый, предадимся бегу
Нетерпеливого коня
И навестим поля пустые,
Леса, недавно столь густые,
И берег, милый для меня.
Еще ты дремлешь, друг прелестный —
Пора, красавица, проснись:
Открой сомкнуты негой взоры
Навстречу северной Авроры,
Звездою севера явись!
Вечор, ты помнишь, вьюга злилась,
На мутном небе мгла носилась;
Луна, как бледное пятно,
Сквозь тучи мрачные желтела,
И ты печальная сидела —
А нынче… погляди в окно:
Под голубыми небесами
Великолепными коврами,
Блестя на солнце, снег лежит;
Прозрачный лес один чернеет,
И ель сквозь иней зеленеет,
И речка подо льдом блестит.
Вся комната янтарным блеском
Озарена. Веселым треском
Трещит затопленная печь.
Приятно думать у лежанки.
Но знаешь: не велеть ли в санки
Кобылку бурую запречь?
Скользя по утреннему снегу,
Друг милый, предадимся бегу
Нетерпеливого коня
И навестим поля пустые,
Леса, недавно столь густые,
И берег, милый для меня.
<1829>
174.GỬI FADIN KHAN
Kỳ tích mới của anh thật có phước
Đi về phương bắc giá lạnh của tôi
Nơi mùa xuân chỉ rất ngắn ngủi thôi
Nhưng nơi đó Saadi và Hafiz
Là những cái tên quen với mọi người.
Anh đến thăm nơi này lúc nửa đêm
Hãy để lại điều gì làm dấu vết
Bông hoa của trí tưởng tượng phương Đông
Hãy vung ra trên tuyết miền phương Bắc.
1829
_____________
*Fadin Khan (1873 – 1852) – nhà thơ Ba
Tư. Pushkin làm quen với Fadin Khan ở Gruzia khi Pushkin trên đường đi Tiflis
còn Fadin Khan đi Saint Petersburg.
Фазиль-хану
Благословен твой
подвиг новый,
Твой путь на север наш суровый,
Где кратко царствует весна,
[Но где Гафиза и Саади]
[Знакомы имена].
[Ты посетишь наш край] полночный,
[Оставь же след]
Цветы фантазии восточной
Рассыпь на северных снегах.
Твой путь на север наш суровый,
Где кратко царствует весна,
[Но где Гафиза и Саади]
[Знакомы имена].
[Ты посетишь наш край] полночный,
[Оставь же след]
Цветы фантазии восточной
Рассыпь на северных снегах.
1829
175.LẦN NỮA VINH QUANG
Lần nữa chúng ta giành được vinh quang
Lần nữa kẻ thù kiêu căng thua trận
Tranh chấp đẫm máu ở Erzurum đã định
Ở Edirne đã có được hòa bình.
Nước Nga về phía trước vẫn tiến lên
Oai phong làm dễ cho cả phương Nam
Và một nửa biển Đen người lôi cuốn
Vào vòng tay vốn căng chật của mình.
1829
______________
*Bài thơ về Chiến tranh Nga – Thổ.
Erzurum, Edirne (Adrianople) – các thành phổ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Evksina là cách gọi
tên biển Đen của người Hy Lạp cổ.
Опять увенчаны мы славой
Опять увенчаны мы славой,
Опять
кичливый враг сражен,
Решен в
Арзруме спор кровавый,
В Эдырне
мир провозглашен.
И дале
двинулась Россия,
И юг
державно облегла,
И
пол-Эвксина вовлекла
В свои
объятия тугие.
1829
176.TÔI SẴN SÀNG LÊN ĐƯỜNG*
Tôi sẵn sàng lên đường theo các bạn
Dù đi về đâu tôi vẫn sẵn sàng
Đi chạy trốn thói ngạo mạn, kiêu căng
Đến Vạn lý Trường thành xa thăm thẳm
Đến Paris, hay về nơi cuối tận
Người lái thuyền Tasso** đã chẳng hát
lên
Thành phố xưa ngủ yên trong hoang vắng
Nơi rừng trắc bá diệp tỏa mùi hương
Tôi sẵn sàng đi. Nhưng hãy nói giùm:
Niềm đam mê có chết trên đường vắng?
Có quên được kẻ khổ đau, ngạo mạn
Hay lại về phủ phục dưới bàn chân
Dâng tình yêu cho nàng, như vật cống?
1829
____________
*Bài thơ này gắn với một sự kiện trong
cuộc đời của Pushkin. Tháng Tư năm 1829 Pushkin cầu hôn với Natalya Nikolaevna
Goncharova (1812 – 1863) nhưng nhận được câu trả lời chưa xác định. Pushkin
muốn đi thật xa để quên được nàng.
** Torquato Tasso (1544 – 1595) – nhà
thơ Ý, tác giả của “Jerusalem giải phóng” (La Gerusalemme liberata, 1580).
Поедем, я готов; куда бы вы, друзья
Поедем, я готов; куда бы вы, друзья,
Куда б ни
вздумали, готов за вами я
Повсюду
следовать, надменной убегая:
К
подножию ль стены далекого Китая,
В кипящий
ли Париж, туда ли наконец,
Где Тасса
не поет уже ночной гребец,
Где
древних городов под пеплом дремлют мощи,
Где
кипарисные благоухают рощи,
Повсюду я
готов. Поедем... но, друзья,
Скажите:
в странствиях умрет ли страсть моя?
Забуду ль
гордую, мучительную деву,
Или к ее
ногам, ее младому гневу,
Как дань
привычную, любовь я принесу?
1829