Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018

Thơ Puskin Song Ngữ - P. 26


183.HY LẠP HÃY ĐỨNG LÊN

Hỡi đất nước Hy Lạp, hãy đứng lên
Chẳng vô tình trỗi dậy nguồn sức mạnh
Chẳng vô tình nổi lên lời chửi mắng
Olympus, Pindus, Thermopylae.

Dưới bóng của những đỉnh núi ngàn năm
Niềm tự do tươi trẻ đà trỗi dậy
Trên ngôi mộ của Pericles
Trên đá hoa cẩm thạch của Athens.

Xứ sở thần thánh, xứ sở anh hùng
Đã phá tan những xiềng gông nô lệ
Trong lời hát những câu thơ bốc lửa
Của Tyrtaes, Rigas và Bai-rơn.
1829
_____________
*Olympus – ngọn núi, Pindus – dãy núi, Thermopylae – hẻm núi ở Hy Lạp.
*Pericles (494-429 tr. CN) – vị tướng Hy Lạp, một trong những người khởi xướng nền “dân chủ Athens”.
*Tyrtaes (thế kỷ VII tr. CN) và Rigas (1757-1798) là những nhà thơ Hy Lạp. Bai-rơn (Byron, 1788-1824) – nhà thơ Anh, người Hy Lạp coi Byron là anh hùng dân tộc của Hy Lạp.

Восстань, о Греция, восстань

Восстань, о Греция, восстань.
Недаром напрягала силы,
Недаром потрясала брань
Олимп и Пинд и Фермопилы.

Под сенью ветхой их вершин
Свобода юная возникла,
На гробах
Перикла,
На
мраморных Афин.

Страна героев и богов
Расторгла рабские вериги
При пеньи пламенных стихов
Тиртея, Байрона и Риги.
1829


184.XƯA CÓ CHÀNG HIỆP SĨ

Xưa có chàng hiệp sĩ
Nghèo, lặng lẽ, giản đơn
Vẻ tái nhợt, tối tăm
Lòng can đảm, thẳng thắn.

Chàng có một cái nhìn
Đầu óc không hiểu được
Và ấn tượng sâu sắc
Khắc ghi trong tim chàng.

Chàng đến Giơ-ne-va
Thấy bên cây Thánh giá
Đức mẹ Maria
Thân sinh của Đức Chúa.

Kể từ đó lòng chàng
Không còn nhìn phụ nữ
Cho đến ngày xuống mộ
Chàng không nói không rằng.

Kể từ đó, lưới sắt
Không rời khỏi gương mặt
Và thay cho chiếc khăn
Quấn lên cổ tràng hạt.

Chưa Chúa Cha, Chúa Con
Chúa Thánh Linh cầu nguyện
Chàng chưa hề một lần
Chàng là người lạ lẫm.

Rồi cứ thế hằng đêm
Trước gương mặt thánh thần
Hướng mắt về Đức Mẹ
Nước mắt rơi lặng thầm.

Đầy tình yêu, đức tin
Với ước mơ sùng đạo
Kinh Kính Mừng* bằng máu
Chàng khắc trên tấm khiên.

Như bao chàng hiệp sĩ
Làm kẻ thù run sợ
Trên đồng Palestin
Chàng hướng về Đức Mẹ.

Lời “Hoa hồng thánh thần!”**
Kêu to hơn tất cả
Xua người Islam
Đến từ khắp mọi phía.

Về lâu đài xa xăm
Chàng sống trong khắc khổ
Yêu thương và đau buồn
Chàng chết trong lặng lẽ.

Khi chàng vừa lìa trần
Quỉ láu lỉnh tinh ranh
Mang hồn chàng hiệp sĩ
Về xứ sở của mình:

Chàng chưa từng cầu Chúa
Chàng chưa từng ăn chay
Chàng đi đó đi đây
Tìm Đức Mẹ của Chúa.

Đem mọi chuyện tính sổ
Đức Mẹ bênh vực chàng
Và cho chàng hiệp sĩ
Được lên Nước Thiên đàng.
1829
____________
*Ave, Mater Dei – những lời trong bản kinh cầu nguyện Đức Mẹ Maria (Kinh Kính Mừng).

** Lumen coeli, sancta rosa! – Ánh sáng trời, Hoa hồng thần thánh

Жил на свете рыцарь бедный

Жил на свете рыцарь бедный,
Молчаливый и простой,
С виду сумрачный и бледный,
Духом смелый и прямой.

Он имел одно виденье,
Непостижное уму,
И глубоко впечатленье
В сердце врезалось ему.

Путешествуя в Женеву,
На дороге у креста
Видел он Марию Деву,
Матерь Господа Христа.

С той поры, сгорев душою,
Он на женщин не смотрел,
И до гроба ни с одною
Молвить слова не хотел.

С той поры стальной решётки
Он с лица не подымал
И себе на шею чётки
Вместо шарфа привязал.

Несть мольбы Отцу, ни Сыну,
Ни Святому Духу ввек
Не случилось паладину,
Странный был он человек.

Проводил он целы ночи
Перед ликом Пресвятой,
Устремив к Ней скорбны очи,
Тихо слёзы лья рекой.

Полон верой и любовью,
Верен набожной мечте,
Ave, Mater Dei кровью
Написал он на щите.

Между тем как паладины
Ввстречу трепетным врагам
По равнинам Палестины
Мчались, именуя дам,

Lumen coelum, sancta Rosa!
Восклицал всех громче он,
И гнала его угроза
Мусульман со всех сторон.

Возвратясь в свой замок дальный,
Жил он строго заключён,
Всё влюбленный, всё печальный,
Без причастья умер он;

Между тем как он кончался,
Дух лукавый подоспел,
Душу рыцаря сбирался
Бес тащить уж в свой предел:

Он-де Богу не молился,
Он не ведал-де поста,
Не путём-де волочился
Он за Матушкой Христа.

Но Пречистая сердечно
Заступилась за него
И впустила в царство вечно
Паладина Своего.
1829


185.BUỒN BÃ VÀ ĐÁNG SỢ

Buồn bã và đáng sợ.
Ta sẽ lại đây
Con đường và nơi ngủ.
Chật chội và ngạt hơi.
Trong hẻm núi hoang dã
Chỉ có tuyết và mây.

Khó nhìn thấy bầu trời
Giống như từ trong ngục
Cơn gió đang gào thét
Thấy xúc phạm mặt trời
1829
______________
*Puskin tả Hẻm núi Darial (Дарьяльское ущелье) biên giới Nga và Gruzia.

Страшно и скучно

Страшно и скучно.
Здесь новоселье,
Путь и ночлег.
Тесно и душно.
В диком ущелье —
Тучи да снег.

Небо чуть видно,
Как из тюрьмы.
Ветер шумит.
Солнцу обидно...
1829
  


186.GIÃ BIỆT

Hình bóng của em trong lần cuối cùng
Anh đánh liều đ đi hồi tưởng lại
Gợi ước mơ của sức mạnh chân thành
Và với niềm vui rụt rè, tê tái
Anh đi nhớ về tình cảm của em.

Năm tháng của ta vội vã qua nhanh
Đổi thay chúng mình, đổi thay tất cả
Em bây giờ cho nhà thơ của mình
Đem khoác lên bóng đêm nơi ngôi mộ
Và với em, người bạn đã không còn.

Thì người bạn gái nơi xa vắng
Hãy nhận lời giã biệt của lòng anh
Em hãy xem như người vợ góa chồng
Như người bạn lặng lẽ ôm người bạn
Trước khi người đó bị giam cầm.
1830

Прощание

В последний раз твой образ милый
Дерзаю мысленно ласкать,
Будить мечту сердечной силой
И с негой робкой и унылой
Твою любовь воспоминать.

Бегут, меняясь, наши лета,
Меняя всё, меняя нас,
Уж ты для своего поэта
Могильным сумраком одета,
И для тебя твой друг угас.

Прими же, дальная подруга,
Прощанье сердца моего,
Как овдовевшая супруга,
Как друг, обнявший молча друга
Пред заточением его.
Осень 1830


Thơ Puskin Song Ngữ - P. 29


199.ANH Ở ĐÂY, INESILLA

Anh ở đây, Inesilla
Đứng đây, ngoài cửa sổ
Thành phố Sevilla
Đang chìm trong giấc ngủ.

Lòng can đảm dâng đầy
Trong áo choàng vây kín
Với ghi ta và kiếm
Anh đứng ở nơi này.

Em ngủ ư? Anh đàn
Để đánh thức em đấy.
Nếu ông già thức dậy
Kiếm bắt ông đi nằm.

Hãy lấy dây lụa mềm
Buộc chặt vào cửa sổ…
Sao mà em chậm thế?
Hay có ai trong phòng?..

Anh đây, Inesilla
Đứng đây, ngoài cửa sổ
Thành phố Sevilla
Đang chìm trong giấc ngủ.
1830
____________
*Đây là bài thơ Puskin mô phỏng bài Serenade (Inesilla! I am here...) của nhà thơ Anh Bryan Procter – bút danh là Barry Cornwall (1787–1874). Sevilla là thành phố ở Tây Ban Nha. Puskin viết bài này cho vở kịch Vị khách bằng đá.

Я здесь, Инезилья

Я здесь, Инезилья,
Я здесь под окном.
Объята Севилья
И мраком и сном.

Исполнен отвагой,
Окутан плащом,
С гитарой и шпагой
Я здесь под окном.

Ты спишь ли? Гитарой
Тебя разбужу.
Проснётся ли старый,
Мечом уложу.

Шелковые петли
К окошку привесь…
Что медлишь?.. Уж нет ли
Соперника здесь?..

Я здесь, Инезилья,
Я здесь под окном.
Объята Севилья
И мраком и сном.
1830


200.DỊCH BARRY CORNWALL*

Here's a health to thee, Mary**

Anh uống chúc sức khỏe
Cho Mary của anh.
Khóa trái cửa lặng lẽ
Chỉ mình ta với mình
Chúc Mary sức khỏe.

Có thể xinh đẹp hơn
Cả Mary của anh
Cô tiên này nhỏ bé
Nhưng dễ thương không thể
Bằng Mary dịu dàng.

Hãy hạnh phúc nghe em
Mặt trời của đời anh!
Không khổ đau, buồn chán
Không những ngày u ám
Đến trong cuộc đời em.
1830
______________
*Puskin phỏng dịch Song (Here's a health to thee, Mary...) của Barry Cornwall.
**Here's a health to thee, Mary – Chúc sức khỏe em, Mary.

Из Barry Cornwall

Here's a health to thee, Mary

Пью за здравие Мери,
Милой Мери моей.
Тихо запер я двери
И один без гостей
Пью за здравие Мери.

Можно краше быть Мери,
Краше Мери моей,
Этой маленькой пери;
Но нельзя быть милей
Резвой, ласковой Мери.

Будь же счастлива, Мери,
Солнце жизни моей!
Ни тоски, ни потери,
Ни ненастливых дней
Пусть не ведает Мери.
1830
  

201.TRƯỚC NGÔI MỘ THIÊNG

Trước ngôi mộ thần thánh và thiêng liêng
Tôi đứng yên, mái đầu tôi cúi xuống
Bốn phía ngủ yên, chỉ những ngọn đèn
Trong bóng tối của ngôi đền vàng óng
Những cây cột đá hoa cương to lớn
Những lá cờ treo trên đó thành hàng.

Phía dưới ngủ yên chúa tể oai hùng
Là thần tượng của đội binh phương Bắc
Người canh giữ đáng kính của Đại cường
Người quy phục biết bao nhiêu kẻ địch
Từ bầy chim ưng vinh quang hiển hách
Còn lại đây một ít của Nữ Hoàng.

Trong mồ ông niềm hân hoan đang sống
Ông công bố lời Nga cho chúng ta
Quả quyết với ta trong tháng năm, mà
Giọng tin tưởng của nhân dân lên tiếng
Hướng mái đầu ông bạc trắng gọi to:
“Hãy ra trận!” và ông vào trận đánh… 

Giờ hãy nghe lời chúng tôi trung thực
Hãy đứng lên và hãy cứu Nga hoàng
Ôi, ông già nghiêm khắc! Trong phút chốc
Hãy hiện lên bên ngôi mộ của ông
Hãy đứng lên, khoan khoái và mẫn tiệp
Với những binh đoàn bỏ lại của ông!

Hãy hiện lên và lấy tay của mình
Chỉ cho chúng tôi trong bao tướng lĩnh
Ai thừa kế, ai người ông lựa chọn!
Nhưng ngôi đền – trong im lặng đắm chìm
Vẻ lặng yên của ngôi mồ chiến trận
Rất điềm nhiên trong giấc ngủ vĩnh hằng…
1831
________________
*Bài thơ về Mikhail Illarionovich Kutuzov (1745 – 1813) là một vị Nguyên soái trong lịch sử Nga. Tên tuổi của ông gắn liền với giai đoạn hùng mạnh của Đế quốc Nga vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Mộ của ông ở trong đền Kazan ở Saint Petersburg.

Перед гробницею святой

Перед гробницею святой
Стою с поникшею главой…
Всё спит кругом; одни лампады
Во мраке храма золотят
Столпов гранитные громады
И их знамён нависший ряд.

Под ними спит сей властелин,
Сей идол северных дружин,
Маститый страж страны державной,
Смиритель всех её врагов,
Сей остальной из стаи славной
Екатерининских орлов.

В твоём гробу восторг живёт!
Он русский глас нам издаёт;
Он нам твердит о той године,
Когда народной веры глас
Воззвал к святой твоей седине:
«Иди, спасай!» Ты встал — и спас…

Внемли ж и днесь наш верный глас,
Встань и спасай царя и нас,
О старец грозный! На мгновенье
Явись у двери гробовой,
Явись, вдохни восторг и рвенье
Полкам, оставленным тобой!

Явись и дланию своей
Нам укажи в толпе вождей,
Кто твой наследник, твой избранный!
Но храм — в молчанье погружён,
И тих твоей могилы бранной
Невозмутимый, вечный сон…
1831


202.TIẾNG VỌNG

Thú dữ có gầm rống lên trong rừng
Tù và có thổi, sấm có rền vang
Thiếu nữ sau đồi có cất tiếng hát
Thì với mỗi âm thanh
Phản hồi của anh giữa không trung
Anh sinh ra đột ngột.

Anh nghe theo tiếng rầm rầm của sấm
Và nghe theo tiếng sóng, tiếng bão giông
Và tiếng kêu của mục phu trên đồng
Và câu trả lời anh gửi
Không ai bình phẩm gì anh
Thì anh là thi sĩ!
1831

Эхо

Ревет ли зверь в лесу глухом,
Трубит ли рог, гремит ли гром,
Поет ли дева за холмом —
На всякий звук
Свой отклик в воздухе пустом
Родишь ты вдруг.

Ты внемлешь грохоту громов,
И гласу бури и валов,
И крику сельских пастухов —
И шлешь ответ;
Тебе ж нет отзыва... Таков
И ты, поэт!
1831


203.THẦN VUI CỦA RƯỢU NHO

Thần vui của rượu nho*
Cho phép ta ba chén
Trong tiệc chiều ta uống.
Đầu tiên chúc vị thần
Trần truồng và e thẹn**
Chén thứ hai ta uống
Chúc sức khỏe má hồng
Chén thứ ba ta uống
Chúc tình bạn lâu năm.
Sau ba chén người khôn
Hoa trên đầu bỏ xuống
Và bày tỏ cảm tình
Với Morpheus cao thượng***.
1832
_________________
*Đây là bài thơ Pushkin mô phỏng thơ của nhà thơ Hy Lạp Eubulus (thế kỷ IV tr. CN).
**Vị thần trần truồng và e thẹn là vị thần ba trong một gọi là Charites (Hy Lạp) hoặc Gratiae (La Mã) tượng trưng cho niềm vui của cuộc đời.
*** Morpheus là thần của giấc ngủ.

Бог веселый винограда

Бог веселый винограда
Позволяет нам три чаши
Выпивать в пиру вечернем.
Первую во имя граций,
Обнаженных и стыдливых,
Посвящается вторая
Краснощекому здоровью,
Третья дружбе многолетной.
Мудрый после третьей чаши
Все венки с главы слагает
И творит уж излиянья
Благодатному Морфею.
1832




204.NGƯỜI ĐẸP

Tất cả nàng hài hòa, tuyệt mỹ
Cao hơn thế giới, hơn mọi đam mê
Nàng sống trong vẻ e ấp, rụt rè
Trong sắc đẹp của mình trang trọng
Và nàng nhìn thấy mình khắp mọi hướng:
Không ai sánh được với nàng
Trước vẻ đẹp của nàng tỏa sáng
Bao nhiêu người đẹp khác biến mất tăm.

Và dù cho bạn đi đâu vội vàng
Dù cho bạn đến với tình gặp gỡ
Và dù cho bạn trong tim ấp ủ
Một mơ ước kín thầm –
Nhưng gặp nàng, sẽ bối rối ngượng ngùng
Và bỗng nhiên dừng lại không chủ ý
Như một kẻ hành hương sùng mộ
Trước vẻ đẹp chốn thiêng liêng.
1832
__________________
*Bài thơ về người đẹp Elena Zavadovskaya (Vlodek).

Красавица

Всё в ней гармония, всё диво,
Всё выше мира и страстей;
Она покоится стыдливо
В красе торжественной своей;
Она кругом себя взирает:
Ей нет соперниц, нет подруг;
Красавиц наших бледный круг
В её сияньи исчезает.

Куда бы ты ни поспешал,
Хоть на любовное свиданье,
Какое б в сердце ни питал
Ты сокровенное мечтанье, —
Но, встретясь с ней, смущённый, ты
Вдруг остановишься невольно,
Благоговея богомольно
Перед святыней красоты.
16 мая — июнь 1832


205.GHI VÀO ALBUM TIỂU THƯ A. D. ABAMELEK

Ngày nào đó (nhớ lại thấy mủi lòng)
Với lòng cảm phục, tôi săn sóc em
Em từng là đứa bé con tuyệt diệu
Rồi em lớn lênvới sự tôn sùng
Đến bây giờ tôi vẫn ngưỡng mộ em.
Tôi mang theo con tim và ánh mắt
Đi theo em thấy rạo rực trong lòng
Như bà nhũ mẫu của em ngày trước
Tôi tự hào về vinh quang của em.
1832

В альбом княжны А. Д. Абамелек

Когда-то (помню с умиленьем)
Я смел вас няньчить с восхищеньем,
Вы были дивное дитя.
Вы расцвели — с благоговеньем
Вам ныне поклоняюсь я.
За вами сердцем и глазами
С невольным трепетом ношусь
И вашей славою и вами,
Как нянька старая, горжусь.
9 апреля 1832