Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018

Thơ Puskin Song Ngữ - P. 30



206.TÔI ĐÃ MONG

Tôi đi về những xứ sở xa xăm
Không khát khao một điều gì ầm ĩ
Không đi tìm bạc vàng, không danh dự
Trong bụi mù trời giữa giáo và gươm.

Tôi chỉ mong làm tươi mát tâm hồn
Được sống lại những ngày tôi đã sống
Trong lãng quên ngọt ngào, bên bè bạn
Của một thời tuổi trẻ, tháng ngày xanh.
1832

Я ехал в дальние края 

Я ехал в дальние края;
Не шумных жаждал я,
Искал не злата, не честей,
В пыли средь копий и мечей.

Желал я душу освежить,
Бывалой жизнию пожить
В забвенье сладком близ друзей
Минувшей юности моей.
1832
______________
*Bài thơ này có khi được sắp xếp lại: 
đưa khổ sau lên trước và khổ trước xuống sau 
nên có variant:

Tôi đã mong làm tươi mát tâm hồn
Được sống lại những ngày tôi đã sống
Trong lãng quên ngọt ngào, bên bè bạn
Của một thời tuổi trẻ, tháng ngày xanh.

Tôi đã về những xứ sở xa xăm
Không khát khao một điều gì ầm ĩ
Không đi tìm bạc vàng, không danh dự
Trong bụi mù trời giữa giáo và gươm.

 Желал я душу освежить

Желал я душу освежить,
Бывалой жизнию пожить
В забвеньи сладком близ друзей
Минувшей юности моей.
———
Я ехал в дальные края;
[Не шумных ‎ жаждал я],
Искал не злата, не честей,
В пыли средь копий и мечей
1832

207.GIÁ KHÔNG VÌ

Giá không vì sự say đắm mơ màng
Một điều gì hồn khao khát ước mong
Thì đã ở lại đây – niềm khoái lạc
Nếm trải trong lặng yên chưa từng biết:
Đã quên rạo rực của mọi ước моng
Và gọi là giấc mơ  – cõi trần gian
Đã nghe những lời thì thầm khoan nhặt
Và đã hôn lên những bàn chân…
1833

Когда б не смутное влеченье

Когда б не смутное влеченье
Чего-то жаждущей души,
Я здесь остался б — наслажденье
Вкушать в неведомой тиши:
Забыл бы всех желаний трепет,
Мечтою б целый мир назвал —
И всё бы слушал этот лепет,
Всё б эти ножки целовал…
октябрь 1833



208.TUYẾT BẠC TRẮNG TRÊN ĐỒNG

Tuyết bạc trắng trên đồng
Xốp tơi và gợn sóng
Xe tam mã phóng nhanh
Trên đường trăng ngời sáng.

Hát lên, bác xà ích
Xua nỗi buồn trong đêm
Ô
i lòng ta thân thiết
Những câu hát dân gian.

Hát lên! Ta lặng im
Khát khao nghe giọng hát.
Trăng chiếu sáng lạnh lùng
Tiếng gió buồn xa lắc.

Hãy hát: “Ôi lửa nhạt*
Sao không cháy bập bùng?”
1833
_______________
 *Bài hát dân gian Nga Luchinushka: “Лучинушка, лучина,
Что же не светло горишь?”

В поле чистом серебрится

В поле чистом серебрится
Снег волнистый и рябой,
Светит месяц, тройка мчится
По дороге столбовой.

Пой: в часы дорожной скуки,
На дороге, в тьме ночной
Сладки мне родные звуки,
Звуки песни удалой.

Пой, ямщик! Я молча, жадно
Буду слушать голос твой.
Месяц ясный светит хладно,
Грустен ветра дальний вой.

Пой: «Лучинушка, лучина,
Что же не светло горишь?»
сентябрь—октябрь 1833


209.ĐÃ ĐẾN LÚC EM ƠI

Đã đ
ến lúc, em ơi, đến lúc rồi
Hai con tim giờ đây cần tĩnh lặng
Nối đuôi nhau ngày tháng
Mỗi giờ đi mang theo một chút đời
Anh và em hai đứa, hai con người
Cứ cho là ta đang sống
Nghĩa là ta đang dần chết em ơi
Niềm hạnh phúc không hề có trên đời
Mà chỉ có tự do và tĩnh lặng
Anh từ lâu mơ số phận tuyệt vời
Kẻ nô lệ này từ lâu mong chạy trốn
Về nơi yên bình và lao động xa xôi.
1834

Пора, мой друг, пopa! покоя сердце просит

Пора, мой друг, пора! [покоя] сердце просит —
Летят за днями дни, и каждый час уносит
Частичку бытия, а мы с тобой вдвоём
Предполагаем жить, и глядь — как раз — умрём.
На свете счастья нет, но есть покой и воля.
Давно завидная мечтается мне доля —
Давно, усталый раб, замыслил я побег
В обитель дальную трудов и чистых нег.
1834


210.MIỆNG NÚI LỬA MỞ RA

Miệng núi lửa mở rakhói bốcvà ngọn lửa
Bùng phát lên, giống như một ngọn cờ
Mặt đất lo lắng – chao đảo những cột to
Thần tượng đổ! Và người dân lo sợ
Dưới mưa đá, dưới những đống tàn tro
Từng đám đông, trẻ già ra khỏi phố.
1834
_____________
 *Bài thơ mô tả cái chết của Pompeii, nảy sinh qua ấn tượng từ bức tranh “Ngày cuối cùng của Pompeii” của Bryullov; Núi lửa Vesuvio ở miền nam Italia.

Везувий зев открыл — дым хлынул клубом — пламя

Везувий зев открыл — дым хлынул клубом — пламя
Широко развилось, как боевое знамя.
Земля волнуется — с шатнувшихся колонн
Кумиры падают! Народ, гонимый страхом,
Под каменным дождем, под воспаленным прахом,
Толпами, стар и млад, бежит из града вон.
1834


211.TÔI ĐỨNG ĐÂY BUỒN BÃ TRONG NGHĨA TRANG

Tôi đứng đây buồn bã trong nghĩa trang
Đưa mắt nhìn ra xung quanh – hoang vắng
Tro tàn cái chết thiêng liêng thần thánh
Chỉ thảo nguyên vây lấy bốn xung quanh.
Đi ngang qua chốn yên nghỉ vĩnh hằng
Có một con đường nông thôn nằm đó
Và có chiếc xe ngựa thồ nho nhỏ
Chỉ đôi khi thỉnh thoảng có tiếng vang.
Bên phải, bên trái có một đồng bằng
Chẳng có đồi, chẳng sông hay cây cỏ
Chỉ đâu đó thấy vài lùm cây nhỏ
Tất cả đơn điệu, một vẻ buồn thương
Những nấm mồ, những viên đá lặng câm
Và những cây thập ác làm bằng gỗ.
1834

Стою печален на кладбище

Стою печален на кладбище.
Гляжу кругом — обнажено
Святое смерти пепелище
И степью лишь окружено.
И мимо вечного ночлега
Дорога сельская лежит,
По ней рабочая телега
. . . . изредка стучит.
Одна равнина справа, слева.
Ни речки, ни холма, ни древа.
Кой-где чуть видятся кусты.
Однообразны и унылы
Немые камни и могилы
И деревянные кресты.
1834


212.TÔI LỚN LÊN GIỮA GIÔNG BÃO U BUỒN

Tôi lớn lên giữa giông bão u buồn
Dòng đời tôi đã lâu ngày u ám
Bây giờ giây phút mơ màng tĩnh lặng
Đã hiện ra màu sáng của thiên thanh.

Có được lâu không?... còn tôi cứ ngỡ rằng
Những ngày u ám, đắng cay đều đã biến
1834

Я возмужал среди печальных бурь

Я возмужал среди печальных бурь,
И дней моих поток, так долго мутный,
Теперь утих дремотою минутной
И отразил небесную лазурь.

Надолго ли?.. а кажется, прошли
Дни мрачных бурь, дни горьких искушений...
1834


213.MÔ PHỎNG THƠ RẬP

Chàng trai của em âu yếm, dịu dàng
Đừng xấu hổ rằng của em mãi mãi
Một ngọn lửa trong lòng ta bừng cháy
Anh và em sống một cuộc đời chung.

Em không sợ tiếng cười chê đâu anh
Hai chúng mình nhân đôi lên giống hệt
Quả hạnh đào mà trong lòng hai hột
Cùng sống êm đềm dưới một vỏ chung.
1835
_____________
 *Khổ cuối bài thơ này Puskin mô phỏng Saadi (khoảng 1203 – 1291) trong tác phẩm Vườn hồng: “Nhớ ngày xưa ta và người bạn sống như hai hạt hạnh đào trong một vỏ chung”.

Подражание арабскому

Отрок милый, отрок нежный,
Не стыдись, навек ты мой;
Тот же в нас огонь мятежный,
Жизнью мы живем одной.

Не боюся я насмешек:
Мы сдвоились меж собой,
Мы точь в точь двойной орешек
Под единой скорлупой.
1835


214.ĐÁM MÂY ĐEN

Đám mây cuối từ cơn bão vừa qua
Một mình ngươi giữa màu xanh tươi sáng
Chỉ một mình ngươi tạo ra chiếc bóng
Một mình người làm buồn chán ngày vui.

Mây đầy trời chỉ vừa mới đây thôi
Và tia chớp xé trời như dọa dẫm
Rồi phát ra tiếng sấm đầy bí ẩn
Rồi rắc mưa lên khắp mặt đất này.

Thôi đ rồi! Ngươi hãy biến đi ngay
Đất tươi lại, bão giông kia đã mất
Ngọn gió lên từng lá cây ve vuốt
Và xua đuổi ngươi ra khỏi bầu trời.
1835

Туча
Последняя туча рассеянной бури!
Одна ты несешься по ясной лазури.
Одна ты наводишь унылую тень,
Одна ты печалишь ликующий день.

Ты небо недавно кругом облегала,
И молния грозно тебя обвивала;
И ты издавала таинственный гром
И алчную землю поила дождем.

Довольно, сокройся! Пора миновалась,
Земля освежилась, и буря промчалась,
И ветер, лаская листочки древес,
Тебя с успокоенных гонит небес.
1835


215.
VẪN CÒN RUN SỢ

Tôi vẫn nghĩ con tim giờ quên hết
Chẳng dễ dàng chịu đau khổ như xưa
Tôi vẫn nói: những ngày xưa thân thiết
Đã
lùi xa không trở lại bao giờ!

Đã
qua rồi những buồn vui, sướng khổ
Những giấc mơ khờ dại, cả tin...
Thế mà giờ lại vẫn còn run sợ
Lại nôn nao trước sắc đẹp uy quyền.
1835

Я думал, сердце позабыло

Я думал, сердце позабыло
Способность лёгкую страдать,
Я говорил: тому, что было,
Уж не бывать! уж не бывать!
Прошли восторги, и печали,
И легковерные мечты…
Но вот опять затрепетали
Пред мощной властью красоты.
1835


216.CÔ GÁI GHEN TUÔNG

Cô gái ghen tuông, nức nở mắng chàng trai
Chàng ghé xuống vai nàng và bỗng mơ màng ngủ.
Nàng im bặt, chăm chút cho giấc mơ nhẹ
Và mỉm cười, và nước mắt lặng lẽ rơi.
1835

Юношу, горько рыдая, ревнивая дева бранила

Юношу, горько рыдая, ревнивая дева бранила;
К ней на плечо преклонен, юноша вдруг задремал.
Дева тотчас умолкла, сон его легкий лелея,
И улыбалась ему, тихие слезы лия.
<1834 — 1835>


217.THƠ CHO DONDUKOV-KORSAKOV

Viện Hàn lâm khoa học
Ngài Dunduk đến họp
Thiên hạ nói không cần
Vinh dự không xứng danh
Thế tại sao ngồi họp?
Bởi vì ngài có… mông*.
1835
_____________
 *Bài thơ về Mikhail Alesandrovich Dondukov-Korsakov (1794 – 1869) – Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Saint Petersburg, một người không có cống hiến khoa học gì nhưng được bầu vào chức vụ này là nhờ quan hệ tình ái đồng tính với Sergei Semyonovich Uvarov (1786 – 1855), Bộ trưởng Bộ Giáo dục.

На Дондукова-Корсакова

В Академии наук
Заседает князь Дундук.
Говорят, не подобает
Дундуку такая честь;
Почему ж он заседает?
Потому что <жопа> есть.
1835


218.EM THẤY KHÔNG, CÔ GÁI

- Em thấy không, cô gái
Thấy con ngựa của anh?
- Em nhìn thấy, nhìn thấy
Thấy con ngựa của anh.

- Chạy đâu, hở em gái
Ngựa anh chạy đâu rồi?
- Ngựa của anh đã chạy
Ra bờ sông Dunai.

Ngựa của anh vừa chạy
Vừa nguyền rủa anh hoài…
Vừa nguyền rủa anh hoài…
1835
________________

 *Đây là bài thơ Puskin mô phỏng nội dung từ các bài hát của Serbia.

— Не видала ль, девица
— Не видала ль, девица,
Коня моего?
— Я видала, видела
Коня твоего.


— Куда, красна девица,
Мой конь пробежал?
— Твой конь пробежал
На Дунай реку -

Бежал твой конь
Тебя проклинал -
Тебя проклинал...
1835