Thứ Tư, 3 tháng 10, 2018

Thơ Puskin Song Ngữ - P. 4


9.NGƯỜI CÔ-DẮC

Một hôm vào nửa đêm
Xuyên bóng tối màn sương
Đi trên sông, lặng lẽ
Người Cô-dắc ngang tàng.

Đội lệch chiếc mũ đen
Chiếc áo choàng đầy bụi
Súng lục trên đầu gối
Chạm đất kiếm lưỡi cong.

Ngựa nhanh như mũi tên
Con ngựa chàng trung thành
Trên bờm ngựa nổi sóng
Đi vào chốn xa xăm.

Phía trước mấy nhà con
Rào giậu không còn nữa
Con đường vào làng nhỏ
Rừng thông ngủ mơ màng.

“Không tìm gái trong rừng –
Chàng Denis nghĩ vậy –
Gái ở trong nhà ấy
Thu xếp để qua đêm”

Chàng lắc nhẹ dây cương
Cựa giày thúc nhẹ nhàng
Như mũi tên ngựa phóng
Rẽ vào những nhà con.

Trong mây trăng lấp lóa
Giữa bầu trời xa xôi
Cô gái đẹp đang ngồi
U sầu bên cửa sổ.

Chàng trai nhìn thiếu nữ
Thấy rạo rực trong lòng
Hướng bên trái, ngựa vòng
Đến kề bên cửa sổ.

“Ngoài trời, đêm tối mịt
Trăng đã lặn mất rồi
Em ơi, bước ra đây
Cho ngựa xin miếng nước”.

“Không! Với đàn ông trẻ
Em sợ bước lại gần
Sợ ra khỏi nhà em
Đem nước ra cho ngựa”

“Em ơi, em đừng sợ
Hãy làm bạn cùng anh!”
“Người đẹp sợ bóng đêm”.
“Niềm vui mà, đừng sợ!

Tin lời anh, em ạ
Quên sợ hãi đi em!
Dùng thời gian bạc vàng
Em yêu ơi đừng sợ!

Hãy lên ngựa cùng anh
Đi về chốn xa xăm
Và cùng anh hạnh phúc
Khắp mọi chốn thiên đàng”.

Cô gái thấy xiêu lòng
Và quên ngay nỗi sợ
Đồng ý lên yên ngựa
Chàng hạnh phúc vô cùng.

Ngựa trên đường bước vội
Và chàng đã yêu nàng
Chung thủy trong hai tuần
Tuần thứ ba thay đổi.
1814
__________________
*Bài thơ này mô phỏng một bài hát dân gian nổi tiếng của Ukraina.

Козак

Раз, полунощной порою
        Сквозь туман и мрак,
    Ехал тихо над рекою
        Удалой козак.

    Черна шапка на бекрене,
        Весь жупан в пыли.
    Пистолеты при колене,
        Сабля до земли.

Верный конь, узды не чуя,
        Шагом выступал;
    Гриву долгую волнуя,
        Углублялся вдаль.

    Вот пред ним две, три избушки, —
        Выломан забор;
    Здесь — дорога к деревушке,
        Там — в дремучий бор.

«Не найду в лесу девицы, —
        Думал хват Денис: —
    Уж красавицы в светлицы
        На ночь убрались».


Шевельнул Донец уздою,
Шпорой прикольнул,
И помчался конь стрелою,
К избам завернул.

В облаках луна сребрила
 Дальни небеса;
Под окном сидит уныла
Девица-краса.

Храбрый видит красну деву;
 Сердце бьется в нем,
Конь тихонько к леву, к леву —
Вот уж под окном.

«Ночь становится темнее,
 Скрылася луна.
 Выдь, коханочка, скорее,
Напои коня».

  «Нет! к мужчине молодому
  Страшно подойти,
  Страшно выдти мне из дому,
  Коню дать воды».

«Ax! небось, девица красна,
 С милым подружись!»
«Ночь красавицам опасна».
«Радость! не страшись!

    Верь, коханочка, пустое;
        Ложный страх отбрось!
    Тратишь время золотое;
        Милая, небось!

Сядь на борзого, с тобою
 В дальний еду край;
Будешь счастлива со мною:
  С другом всюду рай».

Что же девица? Склонилась,
Победила страх,
 Робко ехать согласилась.
Счастлив стал козак.

Поскакали, полетели.
Дружку друг любил;
Был ей верен две недели,
В третью изменил.
1814


10.TÒ MÒ

Có gì mới không? “Lạy Chúa, chẳng có gì”.
– Đừng láu cá: cậu biết điều gì đấy
Thật xấu hổ, với bạn cậu luôn thế
Như với kẻ thù, cứ giấu nhẹm đi.
Hay cậu giận: tha lỗi, vì điều gì?
Đừng bướng bỉnh, dù một lời, hãy nói
Cậu biến đi, tớ chỉ biết điều này
Cậu là thằng ngu, mà đấy cũng không hề mới”.
1814 – 1816

Любопытный

— Что ж нового? «Ей-богу, ничего».
— Эй, не хитри: ты верно что-то знаешь.
Не стыдно ли, от друга своего,
Как от врага, ты вечно все скрываешь.
5
 Иль ты сердит: помилуй, брат, за что?
Не будь упрям: скажи ты мне хоть слово...
«Ох! отвяжись, я знаю только то,
Что ты дурак, да это уж не ново».
1814-1816
  


11.GIỌT LỆ

Hôm qua cùng đứa bạn
Ngồi uống chén rượu poong
Tôi buồn, ngồi im lặng
Đưa mắt nhìn con đường.

“Nhìn ra đường chi vậy? –
Người bạn lính hỏi tôi –
Giờ có dẫn bạn bè
Đến chơi nhà bạn gái”.

Đầu tôi cúi xuống ngực
Và sau đó thì thầm:
“Giờ đã không còn nàng!..”
Tôi thở dài – im bặt.

Giọt lệ từ mắt tôi
Đã rơi vào chén rượu.
“Chao ôi, khóc vì gái
Xấu hổ quá bạn ơi!”

“Bạn ơi, nỗi đau này
Bạn làm sao hiểu chứ.
Một giọt lệ là đủ
Đầu độc cả chiếc ly!”…
1815
___________________
*Người bạn gái này là Ekaterina Pavlovna Poltoratskaya (họ khi chưa lấy chồng là Bakunina, 1795-1869) – tình yêu đầu của Pushkin, nguồn cảm hứng cho Pushkin viết hơn 20 bài thơ tình nổi tiếng. Trong danh sách những người tình của Pushkin người này có tên là “Katerina I”.

Слеза

Вчера за чашей пуншевою
      С гусаром я сидел
И молча с мрачною душою
      На дальний путь глядел.

«Скажи, что смотришь на дорогу? —
      Гусар мой вопросил. —
Еще по ней ты, слава богу,
      Друзей не проводил».

К груди поникнув головою,
      Я скоро прошептал:
«Гусар! уж нет ее со мною!..»
      Вздохнул — и замолчал.

Слеза повисла на реснице
      И канула в бокал.
«Дитя! ты плачешь о девице,
      Стыдись!» — он закричал.

«Оставь, гусар... ох! сердцу больно.
      Ты, знать, не горевал.
Увы! одной слезы довольно,
      Чтоб отравить бокал!..»
1815



Thơ Puskin - P. 8



34.VÀO ALBUM

Những tháng ngày ước mơ rồi sẽ tắt
Ánh sáng ồn ào rồi sẽ gọi ta
Còn ai nhớ đến những lần gặp mặt
Và tình bạn của những tháng ngày qua?
Cho phép tôi trong những dòng lưu bút
Giữ vết tích giây lát cho người ta.
1817

В альбом

Когда погаснут дни мечтанья
И позовет нас шумный свет,
Кто вспомнит братские свиданья
И дружество минувших лет?
Позволь в листах воспоминанья
Оставить им минутный след
1817


35.THƯ GỬI P. A. VYAZEMSKY 

 Phước cho ai trong tiếng ồn thành phố 
Mơ ước về nơi hiu quạnh, cô đơn 
Ai nhìn thấy chỉ nơi chốn xa xăm
Sa mạc, vườn, và ngôi nhà thôn dã 
Những ngọn đồi với rừng cây lặng lẽ 
Thung lũng cùng với suối nước reo vang 
Bầy súc vật cùng với trẻ mục đồng 
Phước cho ai với bạn bè yêu quí 
Ngồi bên chiếc bàn đến tận nửa đêm 
Bằng những bài thơ Nga đem chế nhạo 
Những kẻ người Xlavơ ngu đần 
Phước cho ai không từ giã nhà mình 
Nơi thành phố Moskva ầm ĩ… 
Không phải trong mơ mà trên thực tế 
Giờ này đang ân ái với người tình!.. 
1816

Из письма к кн. П. А. Вяземскому

Блажен, кто в шуме городском
Мечтает об уединенье,
Кто видит только в отдаленье
Пустыню, садик, сельский дом,
5 Холмы с безмолвными лесами,
Долину с резвым ручейком
И даже… стадо с пастухом!
Блажен, кто с добрыми друзьями
Сидит до ночи за столом
И над славянскими глупцами
Смеется русскими стихами;
Блажен, кто шумную Москву
Для хижинки не покидает…
И не во сне, а наяву
Свою любовницу ласкает!..

1816


36.THƠ Đ VÀO CHÂN DUNG KAVERIN

Trong người anh cơn nóng chiến tranh và rượu vẫn sôi lên
Ngoài công viên Thần chiến tranh* anh là người lính dữ
Với bè bạn trung thành, với người đẹplà người tình đau khổ
Và khắp mọi nơi anh là người línhkỵ binh.
1817
________________
*Công viên Marsovo Polye Saint Petersburg, theo thần thoại Hy Lạp: Mars là thần chiến tranh.

К портрету Каверина

В нём пунша и войны кипит всегдашний жар,
На Марсовых полях он грозный был воитель,
Друзьям он верный друг, красавицам мучитель,
И всюду он гусар.
1817


37.GỬI BỨC THƯ

Trong thư là những niềm vui của tôi, khi tôi chết
Hãy đ cho bức thư chạm vào ngực của tôi
Rất có thể, bạn bè thân mến ơi
Rất có thể con tim tôi lại đập.
1817

К письму

В нем радости мои; когда померкну я,
Пускай оно груди бесчувственной коснется:
Быть может, милые друзья,
Быть может сердце вновь забьется.
    <1817>


38.CHỚ DỌA DẪM CON LƯỜI

Chớ dọa dẫm con lười đang còn trẻ
Tôi không đợi chờ cái chết yểu đâu.
Trong vòng hoa tình yêu sẽ đi vào
Không nghĩ suy và không hề rơi lệ.

Tôi sống ít, tận hưởng còn ít quá…
Nhưng đôi khi đã ngắt cánh hoa vui –
Và cuộc đời tôi chỉ mới bắt đầu.
1817

Не угрожай ленивцу молодому...

Не угрожай ленивцу молодому.
Безвременной кончины я не жду.
В венке любви к приюту гробовому
Не думав ни о чем, без ропота иду.

Я мало жил, я наслаждался мало...
Но иногда цветы веселья рвал —
Я жизни видел лишь начало
1817


39.
DÒNG CHỮ TRÊN TƯỜNG BỆNH VIỆN

Chàng sinh viên ốm đang nằm kia
Số phận của chàng thật khắt khe.
Thuốc men xin hãy mang đi khỏi
Tình yêu là thứ bệnh nan y!
1817

Надпись на стене больницы

Вот здесь лежит больной студент;
Его судьба неумолима.
Несите прочь медикамент:
Болезнь любви неизлечима!
1817


40.GỬI

Xin đừng hỏi sao tôi thường u ám
Với ý nghĩ buồn giữa những trò vui
Sao đưa ánh mắt cau có nhìn đời
Sao giấc mộng ngọt ngào không thương mến!

Xin đừng hỏi sao tình yêu vui vậy
Tôi chia tay bằng tê tái cõi lòng
Không một ai tôi còn gọi người thương
Ai yêu một lần, không còn yêu lại

Ai biết hạnh phúc, không còn biết lại
Hạnh phúc trong giây phút được trời ban:
Từ thời tuổi trẻ say mê ngập tràn
Chỉ một nỗi buồn tái tê còn lại
1817

К ***

Не спрашивай, зачем унылой думой
Среди забав я часто омрачен,
Зачем на всё подъемлю взор угрюмый,
Зачем не мил мне сладкой жизни сон;

Не спрашивай, зачем душой остылой
Я разлюбил веселую любовь
И никого не называю милой —
Кто раз любил, уж не полюбит вновь;

Кто счастье знал, уж не узнает счастья.
На краткий миг блаженство нам дано:
От юности, от нег и сладострастья
Останется уныние одно...
1817


41.VÀO ALBUM

Tình sẽ đi qua, ước mong sẽ chết
Ánh sáng lạnh lùng sẽ chia lìa ta
Còn ai nhớ đến những lần gặp mặt
Mơ ước, hân hoan của tháng ngày qua?..
Cho phép tôi trong những trang lưu bút
Giữ vết tích giây lát cho người ta.
1817

В альбом

Пройдет любовь, умрут желанья;
Разлучит нас холодный свет;
Кто вспомнит тайные свиданья,
Мечты, восторги прежних лет?..
Позволь в листах воспоминанья
Оставить им минутный след.
<1817>

42.GỬI AGAREVA, NGƯỜI ĐƯỢC TỔNG GIÁM MỤC TẶNG TRÁI CÂY

Tổng giám mục huyênh hoang, không xấu hổ
Gửi tặng cho em cây trái của mình
Muốn cam kết với ta, thì đã rõ
Rằng Ngài là thánh của những khu vườn.

Nữ thần của niềm vui, em biết cách
Dùng nụ cười chiến thắng kẻ già nua
Và làm cho Tổng giám mục điên rồ
Để trong Ngài sinh ra niềm mong ước.

Và khi ánh nhìn thần tiên Ngài gặp
Sẽ quên đi cây thập ác của mình
Và trở nên dịu dàng, Ngài sẽ hát
Những lời tạ ơn sắc đẹp thần tiên.
1817

К Огаревой, которой митрополит прислал плодов из своего сада

Митрополит, хвастун бесстыдный,
Тебе прислав своих плодов,
Хотел уверить нас, как видно,
Что сам он бог своих садов.

Возможно всё тебе — харита
Улыбкой дряхлость победит,
С ума сведет митрополита
И пыл желаний в нем родит.

И он, твой встретив взор волшебный,
Забудет о своем кресте
И нежно станет петь молебны
Твоей небесной красоте.
1817
  

43.TỰ TIN VÀO SỨC MÌNH

Tôi đây vẫn tự tin vào sức mình
Tôi thông minh giữa những người dại dột
Tôi coi mình là em của Kaverin
Là bạn cùng trường của Molostvov.
1817
_____________
*Pyotr Pavlovich Kaverin (1794 – 1855), và Pamfamir Khristoforovich Molostvov (1793 – 1828) là những người bạn của Puskin.


Я сам в себе уверен...

Я сам в себе уверен,
Я умник из глупцов,
Я маленький Каверин,
Лицейский Молоствов.
1817


44.THƠ CHO KARAMZIN

Hãy nghe đây: tôi sẽ bắt đầu kể
Về Igor và người vợ của ông
Về Novgorod và Vương quốc Vàng
Mà có thể về Ivan Hung đế…”
  Và, bà cụ, gợi ra câu chuyện suông!
Hãy viết cho xong “Ylya Hiệp sĩ”.
1817

На Карамзина

«Послушайте: я сказку вам начну
Про Игоря и про его жену,
Про Новгород и Царство Золотое,
А может быть про Грозного царя…»
— И, бабушка, затеяла пустое!
Докончи нам «Илью-богатыря».
1817