Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Thơ Aleksandr Puskin - Phần 6 (1825 - 1826)



114.BỨC THƯ BỊ ĐỐT CHÁY

Vĩnh biệt bức thư tình! 
Vĩnh biệt: tình ra lệnh. 

Đã bao phen lần lữa 
Đôi tay cũng không đành 
Đem bức thư vào lửa 
Đốt kỷ niệm ngày xanh. 

Nhưng giờ đã đến lúc 
Cháy lên bức thư tình 
Hồn chẳng còn ấm ức 
Giờ tôi đã sẵn sàng 
Nhìn ngọn lửa háo hức 
Ngốn từng trang, từng trang... 

Phút chốc đã bùng lên 
Làn khói như lưu luyến 
Bay lượn lờ uốn quanh 
Mang theo lời cầu nguyện. 
Và ngón tay trung thành 
Đã chẳng còn ấn tượng 
Chút xi gắn vòng quanh 
Tan rồi, ôi thiên mệnh! 

Từng tờ đen cuộn lại 
Rồi trở nên trắng dần 
Lòng tôi đau thắt lại 
Ôi tro tàn mến thương. 
Niềm hân hoan khổ sở 
Của số phận buồn đau 
Sẽ mãi còn sống ở 
Trong lồng ngực u sầu. 
1825

_______________
*Bài thơ về những bức thư của Elizabeta Vorontsova, vợ của Bá tước Mikhail Vorontsov gửi cho Pushkin.


Сожжённое письмо

Прощай, письмо любви, прощай! Она велела...
Как долго медлил я, как долго не хотела
Рука предать огню все радости мои!..
Но полно, час настал: гори, письмо любви.
Готов я; ничему душа моя не внемлет.
Уж пламя жадное листы твои приемлет...
Минуту!.. вспыхнули... пылают... легкий дым,
Виясь, теряется с молением моим.
Уж перстня верного утратя впечатленье,
Растопленный сургуч кипит... О провиденье!
Свершилось! Темные свернулися листы;
На легком пепле их заветные черты
Белеют... Грудь моя стеснилась. Пепел милый,
Отрада бедная в судьбе моей унылой,
Останься век со мной на горестной груди...
1825


115.DƯỚI CHÒM SAO NÀO

Dưới chòm sao nào
Dưới hành tinh nào
Bạn sinh ra, bạn trẻ?
Sao Thủy gần
Hay xa xôi sao Thổ
Hay sao Hỏa, sao Kim?

Bạn trẻ này đã sinh
Dưới một ngôi sao lạ
Dưới một ngôi sao băng
Chỉ khoảnh khắc lóe lên
Giữa bầu trời yên ả.
1825

Под каким созвездием

Под каким созвездием,
Под какой планетою
Ты родился, юноша?
Ближнего Меркурия,
Аль Сатурна дального,
Марсовой, Кипридиной?
———
Уродился юноша
Под звездой безвестною,
Под звездой падучею,
Миг один блеснувшею
В тишине небес.
1825


116.MẢNH TRĂNG U BUỒN

Giữa bầu trời kia mảnh trăng u buồn
Đang bắt gặp ánh bình minh vui vẻ
Một – lạnh lẽo, một – đang cháy sáng lên.
Bình minh ngời như nàng dâu tươi trẻ
Còn mặt trăng tái nhợt trước bình minh
Elvina, anh gặp em cũng thế.
1825
_______________
*Elvina ở đây có thể là Kalorina Sobanskaya.

На небесах печальная луна

На небесах печальная луна
Встречается с веселою зарею,
Одна горит, другая холодна.
Заря блестит невестой молодою,
Луна пред ней, как мертвая, бледна.
Так встретился, Эльвина, я с тобою.

1825


117.GIÔNG TỐ

Bạn từng thấy cô gái trên đá tảng
Mặc xiêm áo trắng trên sóng biển gào
Khi sóng trong màn sương gió thét gào
Và biển với những bờ xa đùa giỡn
Và khi tia chớp lóe sáng bừng lên
Chớp trùm lên ánh hào quang đ thắm
Và ngọn gió đập rung, bay lượn
Cùng chiếc khăn nàng phần phật bay lên?
Biển tuyệt đẹp trong màn sương u ám
Bầu trời lóe sáng khi thiếu màu xanh
Nhưng hãy tin: cô nàng trên đá tảng
Tuyệt vời hơn bão tố, sóng, trời xanh.
1825

Буря

Ты видел деву на скале
В одежде белой над волнами,
Когда, бушуя в бурной мгле,
Играло море с берегами,
Когда луч молний озарял
Ее всечасно блеском алым
И ветер бился и летал
С ее летучим покрывалом?
Прекрасно море в бурной мгле
И небо в блесках без лазури;
Но верь мне: дева на скале
Прекрасней волн, небес и бури.
1825


118.
NẾU ĐỜI GIAN DỐI

Cuộc đời nếu có dối gian
Thì đừng giận dỗi, khóc than làm gì
Trong ngày tử biệt sinh ly
Ngày vui rồi sẽ lại về, hãy tin!
Ngày mai sống giữa con tim
Dẫu ngày đang sống âm thầm xót xa
Đ
ắng cay rồi sẽ đi qua
Những ngày đã sống vẫn là đáng yêu.
1825

Если жизнь тебя обманет

Если жизнь тебя обманет,
Не печалься, не сердись!
В день уныния смирись:
День веселья, верь, настанет.
Сердце в будущем живет;
Настоящее уныло:
Всё мгновенно, всё пройдет;
Что пройдет, то будет мило.
1825


119.
NHỮNG CÀNH HOA MUỘN

Những cành hoa muộn thương hơn
Xinh tươi lộng lẫy những bông đầu mùa
Buồn đau những giấc mơ xưa
Ê
m đềm gợi chút thẫn thờ trong ta
Đô
i khi giờ phút chia xa
Ngọt ngào êm ái hơn là đoàn viên.
1825

Цветы последние милей

Цветы последние милей
Роскошных первенцев полей.
Они унылые мечтанья
Живее пробуждают в нас,
Так иногда разлуки час
Живее сладкого свиданья.
1825


120.PHÚT GIÂY HUYỀN DIỆU

Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu ấy
Khi hình em vụt hiện trước mắt anh
Như ảo ảnh trong thoáng chốc qua nhanh
Như tiên thần đẹp trắng trong nhường ấy.

Trong vô vọng một nỗi sầu tê tái
Giữa âu lo của đời sống ồn ào
Vẳng bên tai anh giọng nói ngọt ngào
Những dáng nét dịu hiền anh mơ thấy.

Tháng ngày trôi. Ồn ào cơn gió nổi
Đã
xua đi những mơ ước ngày nào
Và anh đã quên giọng nói ngọt ngào
Những dáng nét dịu hiền trời ban ấy.

Trong bóng tối chốn lưu đày khổ ải
Dòng thời gian chầm chậm nặng nề trôi
Cả tình yêu, cả nước mắt, cả đời
Cả thánh thần, cảm xúc không có nổi.

Giữa hồn anh bỗng nhiên bừng tỉnh dậy
Và hình em lại hiện trước mắt anh
Như ảo ảnh trong thoáng chốc qua nhanh
Như tiên thần đẹp trắng trong nhường ấy.

Và con tim lại rộn ràng sôi nổi
Vì cho con tim tất cả hồi sinh
Cả cuộc đời, cả nước mắt, thánh thần
Và tình yêu, cảm xúc hồi sinh lại.
1825

К *** Керн

Я помню чудное мгновенье:
Передо мной явилась ты,
Как мимолетное виденье,
Как гений чистой красоты.

В томленьях грусти безнадежной,
В тревогах шумной суеты,
Звучал мне долго голос нежный,
И снились милые черты.

Шли годы. Бурь порыв мятежный
Рассеял прежние мечты,
И я забыл твой голос нежный,
Твои небесные черты.

В глуши, во мраке заточенья
Тянулись тихо дни мои
Без божества, без вдохновенья,
Без слез, без жизни, без любви.

Душе настало пробужденье:
И вот опять явилась ты,
Как мимолетное виденье,
Как гений чистой красоты.

И сердце бьется в упоенье,
И для него воскресли вновь
И божество, и вдохновенье,
И жизнь, и слезы, и любовь.
не позднее 19 июля 1825
  

121.BUỔI CHIỀU MÙA ĐÔNG

Trời đang nổi bão giông
Xoáy vòng cơn lốc tuyết
Khi gào như thú ác
Khi khóc như trẻ con
Khi trên mái cũ mòn
Tiếng xạc xào ống rạ
Khi gõ vào cửa sổ
Như khách muộn trong đêm.

Túp lều tranh tồi tàn
U buồn và tăm tối
U già ơi, sao vậy
Bên cửa sổ lặng im?
Hay tiếng gào bão giông
Làm cho u mỏi mệt
Hay u đang thiêm thiếp
Bên guồng sợi của mình?

Uống cạn tuổi thanh xuân
Mời u cùng nâng chén
Ta uống niềm khổ tận
Cho vui vẻ con tim.
Hãy hát lên như chim
Sống yên ngoài biển cả
Hãy hát như thiếu nữ
Gánh nước buổi bình minh.

Trời đang nổi bão giông
Xoáy vòng cơn lốc tuyết
Khi gào như thú ác
Khi khóc như trẻ con
Uống cạn tuổi thanh xuân
Mời u cùng nâng chén
Ta uống niềm khổ tận
Cho vui vẻ con tim.
1825

Зимний вечер

Буря мглою небо кроет,
Вихри снежные крутя;
То, как зверь, она завоет,
То заплачет, как дитя,
То по кровле обветшалой
Вдруг соломой зашумит,
То, как путник запоздалый,
К нам в окошко застучит.

Наша ветхая лачужка
И печальна и темна.
Что же ты, моя старушка,
Приумолкла у окна?
Или бури завываньем
Ты, мой друг, утомлена,
Или дремлешь под жужжаньем
Своего веретена?

Выпьем, добрая подружка
Бедной юности моей,
Выпьем с горя; где же кружка?
Сердцу будет веселей.
Спой мне песню, как синица
Тихо за морем жила;
Спой мне песню, как девица
За водой поутру шла.

Буря мглою небо кроет,
Вихри снежные крутя;
То, как зверь, она завоет,
То заплачет, как дитя.
Выпьем, добрая подружка
Бедной юности моей,
Выпьем с горя; где же кружка?
Сердцу будет веселей.
1825


122.GIỮ GÌN TA, BÙA HỘ MÊNH CỦA TA

Giữ gìn ta, bùa hộ mệnh của ta
Giữ gìn ta trong những ngày lùng bắt
Trong ngày ăn năn, trong ngày hồi hộp
Một ngày buồn nàng đã tặng cho ta.

Khi trong ngày dậy sóng biển khơi xa
Xung quanh ta biển thét gào ầm ĩ
Khi mây đen đầy trời mang bão tố
Giữ gìn ta, bùa hộ mệnh của ta.

Khi một mình ở nơi bến bờ xa
Khi trong lòng vẻ lặng yên nhàm chán
Và khi trong sự âu lo trận đánh
Giữ gìn ta, bùa hộ mệnh của ta.

Vẻ ngọt ngào thần thánh của dối lừa
Với lòng ta là tinh cầu huyền diệu…
Ngươi giữ kín và ngươi làm thay đổi…
Giữ gìn ta, bùa hộ mệnh của ta.

Và muôn thuở vết thương của lòng ta
Ngươi đừng làm sống lại bằng hoài niệm
Hãy ngủ, ước mong, vĩnh biệt niềm hy vọng
Hãy giữ gìn ta, bùa hộ mệnh của ta.
1825
_______________
*Bùa hộ mệnh mà Pushkin nói đến ở đây là chiếc nhẫn vàng mặt đá có dòng chữ Do Thái cổ mà người đẹp Elizabeta Ksaveryevna Vorontsova (1792 – 1880) tặng cho nhà thơ. Pushkin coi chiếc nhẫn này là bùa hộ mệnh của mình và không bao giờ tháo nó ra khỏi tay mình. Khi Pushkin chết nhà thơ Vasily Zhukovsky (1783 – 1852) tháo chiếc nhẫn này và giữ nó, sau khi ông mất, con trai của Zhukovsky chuyển chiếc nhẫn này cho nhà văn  Ivan Turgenev (1818 – 1883). Sau khi Turgenev mất, nữ ca sĩ người Pháp Pauline Viardot (1821 – 1910) bảo quản chiếc nhẫn này. Năm 1887 được chuyển cho Bảo tàng Pushkin (ở trong khuôn viên trường Lyceum Hoàng thôn) và năm 1917 nó bị kẻ trộm lấy mất. Xem thêm bài thơ “Bùa hộ mệnh”.


Храни меня, мой талисман

Храни меня, мой талисман,
Храни меня во дни гоненья,
Во дни раскаянья, волненья:
Ты в день печали был мне дан.

Когда подымет океан
Вокруг меня валы ревучи,
Когда грозою грянут тучи —
Храни меня, мой талисман.

В уединенье чуждых стран,
На лоне скучного покоя,
В тревоге пламенного боя
Храни меня, мой талисман.

Священный сладостный обман,
Души волшебное светило...
Оно сокрылось, изменило...
Храни меня, мой талисман.

Пускай же ввек сердечных ран
Не растравит воспоминанье.
Прощай, надежда; спи, желанье;
Храни меня, мой талисман.
1825


123.BÙA HỘ MỆNH

nơi muôn thuở sóng biển rì rầm
Trên những vách đá nơi hoang vắng
Nơi mà ánh trăng dường như sáng hơn
Trong giờ ngọt ngào một buổi chiều sương
Nơi có người theo đạo Hồi đang sống
Đang tận hưởng hạnh phúc trong Harem*
Ở nơi đó có nàng tiên dịu dàng
Nàng đã tặng tôi chiếc bùa hộ mệnh.

Nàng âu yếm và nói với tôi rằng:
“Chàng hãy giữ bùa hộ mệnh của em:
Có một sức mạnh kín thầm bí ẩn
Món quà tình yêu em muốn trao anh.
Nhưng bệnh tật hay nấm mồ chết chóc
Trong giông tố, hay giữa trận cuồng phong
Thì cái đầu của anh, anh yêu thương
Bùa hộ mệnh của em không cứu được.

Và kho châu báu của Phương Đông kia
Bùa sẽ không ban tặng cho anh được
Những người hâm mộ của nhà tiên tri
Bùa cho anh cũng không hề chinh phục.
Bùa sẽ không mang anh về phương bắc
Về giữa lòng người bạn, từ phương nam
Từ xứ sở xa lạ và đau buồn
Bùa không mang anh lao về vun vút…

Nhưng mà khi những ánh mắt quỷ quyệt
Bỗng đột nhiên quyến rũ, bỏ bùa anh
Hoặc bờ môi trong bóng tối của đêm
Dù không yêu vẫn hôn anh tha thiết
Thì bùa giúp anh tránh bao tội ác
Giúp cho anh khỏi những vết thương lòng
Khỏi sự phản bội và sự lãng quên
Bùa của em sẽ giúp cho anh được!”
1827
____________
*Harem (hoặc Haram) – ở các nước Hồi giáo, là nơi được bảo vệ cẩn mật để dành cho những người đẹp ở. Tương tự như khuê phòng của cung tần mỹ nữ ở Á đông.

Талисман

Там, где море вечно плещет
На пустынные скалы,
Где луна теплее блещет
В сладкий час вечерней мглы,
Где, в гаремах наслаждаясь,
Дни проводит мусульман,
Там волшебница, ласкаясь,
Мне вручила талисман.

И, ласкаясь, говорила:
«Сохрани мой талисман:
В нем таинственная сила!
Он тебе любовью дан.
От недуга, от могилы,
В бурю, в грозный ураган,
Головы твоей, мой милый,
Не спасет мой талисман.

И богатствами Востока
Он тебя не одарит,
И поклонников пророка
Он тебе не покорит;
И тебя на лоно друга,
От печальных чуждых стран,
В край родной на север с юга
Не умчит мой талисман…

Но когда коварны очи
Очаруют вдруг тебя,
Иль уста во мраке ночи
Поцалуют не любя —
Милый друг! от преступленья,
От сердечных новых ран,
От измены, от забвенья
Сохранит мой талисман!»
<1827>


124.TẠO RA THẾ GIỚI

Đầu tiên chưa có cuộc đời cũng như ánh sángmặt đất bị nước phân chiakhông khí bất động, bầu trời dày đặc và đen.
Bỗng nhiên, trên bầu trời một điểm sáng lóe lên, rồi điểm sáng này bừng lên, bừng lên và trở thành mặt trời.
Thế giới được soibầu trời trở nên xanh và trong suốt, đất tách ra khỏi nướcmặt trời chuyển động và những ngọn gió thổi lênvậy là có ngày đầu tiên và đêm đầu tiên.
Mặt trời ghé xuống bên rìa của thế giới và tất cả lại tối đen lần nữa. thế giới mới rùng mình hoảng sợ. Khi đó xuất hiện hàng nghìn điểm mới và từ bên phía rìa khác của thế giới mặt trăng hiện ra đ mà an ủi.
Ngày thứ haimặt trời lại hiện ra và những ngọn gió thổi giữa trời. Mặt đất đ mồ hôi và sinh ra cỏ hoa, cây cối và động vật có nhiều vô kể
Ngày thứ ba – đáy nước ấm lên và sinh ra cá –
Ngày thứ tư – chim bay ra từ những đám mây rồi đậu lên những cành cây.
Vậy là mặt trời đã sinh ra ánh sáng và cuộc đời.
1820
_____________
*Bài này và hai bài tiếp sau đây là những bài mô phỏng Kinh Thánh. Bài này Puskin mô phỏng phần đầu quyển Sáng Thế Ký.

Сотворение мира

В начале не было ни жизни, ни света — земля была разделена вод[о]ю — воздух недвижим, небо густо и черно.
Вдруг на небе блеснула яркая точка, она разгоралась боле и боле и стало солнце.
Мир осветился — небо стало прозрачно-голубое, земля удалилась от воды — солнце двинулось и ветры повеяли — таковы были первый день и первая ночь.
Солнце зашло за край мира и все померкло снова, новый мир испуга<лся>. Тогда заблистали тысячи новых точ<ек> и с другого края мира явилась луна, чтоб успокоить.
[На другой день солнце взошло снова] и ветры повеяли. Земля вспотела и породила травы, деревья, множе<ство> животных —
[На третий день] согрелось дно водное и породило рыб —
[На 4 день] птицы вылетели из облаков и сели на ветви древесные.
Так Солнце произвело свет и жизнь.
1820


125.NGỌN LỬA ƯỚC MONG

Trong máu cháy lên ngọn lửa ước mong
Cõi lòng anh hình bóng em vây lấy
Hãy hôn anh: những nụ hôn của em
Ngọt ngào hơn nhựa thơm và rượu vậy.
Hãy nghiêng xuống đây mái đầu êm ái
Cho anh nghỉ trong yên tĩnh, thanh bình
Khi ngày vui của ta đang dần tàn
Và bóng của màn đêm đang đi tới.
1825
__________
*Bài thơ này Puskin dựa theo mô típ Nhã ca của Solomon trong Kinh Thánh Cựu Ước: “Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình của chàng ngon hơn rượu…” (Nhã Ca 1: 2).

В крови горит огонь желанья

В крови горит огонь желанья,
Душа тобой уязвлена,
Лобзай меня: твои лобзанья
Мне слаще мирра и вина.
Склонись ко мне главою нежной,
И да почию безмятежный,
Пока дохнет веселый день
И двигнется ночная тень.
1825


126.VƯỜN CỦA EM GÁI ANH

Vườn của em gái anh
Khu vườn em vắng vẻ
Nước nguồn từ trên núi
Là dòng suối niêm phong.
Quả đây sáng chói
Chín mọng và ánh vàng
Dòng nước chảy rì rầm
Sống động và sôi nổi
Nào cam tùng, lô hội
Nào hoa móng, kỳ hương
Giàu có những mùi thơm
Nhục quế và dị thảo.
1825
_____________
*Bài thơ này cũng dựa theo mô típ Nhã Ca của Solomon trong Kinh Cựu Ước, chương IV, dòng 12-16:

12 Này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới,
em là khu vườn cấm, là dòng suối canh phòng nghiêm mật,
là giếng nước niêm phong,

13
là địa đàng xanh non mầm thạch lựu
đ
ầy hoa thơm trái tốt : nào hoa móng, cam tùng,

14
cam tùng với huỳnh khương,
nào đinh hương, nhục quế với mọi thứ nhũ hương,
nào mộc dược, lô hội cùng mọi thứ kỳ hương, dị thảo.

Вертоград моей сестры

Вертоград моей сестры,
Вертоград уединенный;
Чистый ключ у ней с горы
Не бежит запечатленный.
У меня плоды блестят
Наливные, золотые;
У меня бегут, шумят
Воды чистые, живые.
Нард, алой и киннамон
Благовонием богаты:
Лишь повеет аквилон,
И закаплют ароматы.
1825


127.GỬI ANNA NIKOLAYEVNA VULF

Than ôi! Cho cô nàng kiêu căng tai ác
Tôi dâng nàng tình yêu chỉ hoài công!
Chẳng máu nóng, chẳng cuộc đời của mình
Không thể chạm đến cõi lòng cứng nhắc.
Thôi chỉ đành biết uống no nước mắt
Dù nỗi buồn đang xé nát con tim.
Tôi chỉ mong một chút được ngồi gần
Đ ngửi thôi mà cũng không được phép.
1825
_________________
*Bài thơ này được Pushkin tự tay chép vào Album của Anna Vulf, tuy nhiên không có hai câu cuối, là hai câu được Anna Kern (1800 -1879), cũng là một người tình khác của Pushkin, kể lại. Bài thơ có vẻ bông đùa nhiều hơn là một tình cảm chân thật. Anna Vulf mất năm 1857 và không lấy ai. Có thể tình cảm với Pushkin đi theo nàng suốt cuộc đời.

Анне Н. Вульф

Увы! напрасно деве гордой
Я предлагал свою любовь!
Ни наша жизнь, ни наша кровь
Её души не тронет твёрдой.
Слезами только буду сыт,
Хоть сердце мне печаль расколет.
Она на щепочку <нассыт>,
Но и <понюхать> не позволит.
1825

  
128.CHẲNG ÂN SỦNG MÀ LÀ TAI NẠN

Dù những bài thơ về những cái tên
Natalia, Sofia, Katerina đã viết
Có lẽ chúng đã không còn là mốt
Nhưng anh là người hâm mộ của em
Và đ tỏ ra ngoan ngoãn làm gương
Anh sẵn sàng phụng sự em bằng họ.
Nhưng anh đem bản thân mình nguyền rủa
Khi anh biết tại vì sao gia đình
Đã làm lễ đặt cho em tên thánh.
Không, không, theo ý của riêng anh
Thì lời em và cả ánh mắt buồn
Và đôi chân (nói điều này anh dám) –
Tất cả thứ đó cực kỳ dễ thương
Nhưng chẳng ân sủng mà là tai nạn.
1825

Хотя стишки на именины

Хотя стишки на именины
Натальи, Софьи, Катерины
Уже не в моде, может быть,
Но я, ваш обожатель верный,
Я в знак послушности примерной
Готов и ими вам служить.
Но предаю себя проклятью,
Когда я знаю, почему
Вас окрестили благодатью!
Нет, нет, по мненью моему,
И ваша речь, и взор унылый,
И ножка (смею вам сказать) —
Всё это чрезвычайно мило,
Но пагуба, не благодать.
1825


129.CON ĐƯỜNG MÙA ĐÔNG

Mảnh trăng nhỏ chiếu xuyên
Những màn sương gợn sóng
Á
nh trăng buồn lai láng
Rót trên những cánh đồng.

Trên con đường mùa đông
Xe tam mã lao nhanh
Cây chuông nhỏ đơn giọng
Và buồn tẻ gióng lên.

Có gì nghe thân quen
Người xà ích hát lên
Vừa ngang tàng, ngáo ngổ
Vừa buồn nhớ chân tình

Không nhà, chẳng ánh đèn
Chỉ tuyết trắng và rừng
Chỉ cột dài cây số
Đó
n ta bên đường.

BuồnNgày mai, Nhina
Ngày mai anh quay về
Quây quần bên bếp lửa
Sẽ ngồi ngắm em nghe.

Tích tắc kim đồng hồ
Vẫn quay vòng đều nhịp
Xua lũ người tẻ nhạt
Đ
đêm chỉ còn ta.

Buồn bã quá, Nhina
Người xà ích đã lặng
Còn tiếng chuông đơn giọng
Trăng khuất sau sương mờ.
1826
_______________
*Cô gái Nhina trong bài thơ này là hình bóng của Sofia Pushkina, người mà Pushkin tỏ tình nhưng bị từ chối. Có thể Sofia cũng có cảm tình với Pushkin nhưng vì tình hình tài chính khó khăn của gia đình nên đành đi lấy người khác

Зимняя дорога

Сквозь волнистые туманы
Пробирается луна,
На печальные поляны
Льет печально свет она.

По дороге зимней, скучной
Тройка борзая бежит,
Колокольчик однозвучный
Утомительно гремит.

Что-то слышится родное
В долгих песнях ямщика:
То разгулье удалое,
То сердечная тоска......

Ни огня, ни черной хаты,
Глушь и снег.... На встречу мне
Только версты полосаты
Попадаются одне...

Скучно, грустно..... завтра, Нина,
Завтра к милой возвратясь,
Я забудусь у камина,
Загляжусь не наглядясь.

Звучно стрелка часовая
Мерный круг свой совершит,
И, докучных удаляя,
Полночь нас не разлучит.

Грустно, Нина: путь мой скучен,
Дремля смолкнул мой ямщик,
Колокольчик однозвучен,
Отуманен лунный лик.
<1826>
  

130.EM HÃY NHƯ MỘT CHIẾC CỐC ĐẦY TRÀN

Em hãy như một chiếc cốc đầy tràn
Ngôi nhà hạnh phúc của người trẻ tuổi
Hạnh phúc của em anh không hiểu nổi
Nhưng làm thinh về tất cả nghe em.

Có điều gì rối rắm, điều gì lạ
Không hiểu được bằng lý trí của anh
Thật quái quỉ! Nhưng ý chí của em
Thì anh sẽ không nói điều gì cả.

Có phải ngày vui của ta là thế
Hở Masa, người bạn của lòng anh
Không bao giờ về hạnh phúc chúng mình
Ta sẽ không nói ra điều gì cả.

Hãy đứng lại – anh đoán ra một nhẽ
Đấy là khổ đau của trái tim em
Anh hiểu ra, anh đã hiểu rồi em!
Đừng nói lộ ra điều gì em nhé.

Phán xét nghiêm khắc và lời của em
Làm cho anh quí trọng hơn tất cả.
Và có phải về hạnh phúc chúng mình
Em chưa nói một điều gì hết cả!
___________

Anh cùng tuổi với tôi, và đáng quí
Tôi vẫn coi anh như đứa anh trai
Và anh đã yêu tôi như em gái
Hãy nói xem, tôi đâu có lỗi gì.

Không, Masa, em không hề có lỗi.
___________

Và đám cưới này sẽ chẳng xảy ra.
1826

Будь подобен полной чаше

Будь подобен полной чаше,
[Молодых счастливый дом] —
Непонятно счастье ваше,
Но молчите ж обо всем.

Что за диво, что за каша
Для рассудка моего —
Чорт возьми! но, воля ваша,
Не скажу я ничего.

То-то праздник мне да Маше
Другу сердца моего;
Никогда про счастье наше
Мы не скажем ничего.

Стойте
 — тотчас угадаю
Горе сердца твоего.
Понимаю, понимаю! —
Не болтай же ничего.

Строгий суд <и> слово ваше
Ценим более <всего>.
Вы ль одни про счастье наше
Не сказали ничего!


Он мне ровесник, он так мил,
Всегда видала в нем я брата,
Он, как сестру, меня любил.
Скажите, чем я виновата.

Нет, Маша, ты не виновата.


И этой свадьбе не бывать.
1826


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét