Thứ Tư, 3 tháng 10, 2018

Thơ Puskin - P. 10


60.ĐỜI LÀ ẢO ẢNH THÔI

Đời là ảo ảnh thôi
Vô thường và vớ vẩn
Chỉ sắc đẹp, ly chén
Là niềm vui cuộc đời.

Tình yêu và rượu vang
Ta đều cần đến nó
Những thứ này không có
Ngồi ngáp hết đời mình.

Tôi thêm vào lười biếng
Cùng với những thứ này
Tình cùng với lười biếng
Ngồi rót rượu cho tôi.
1819

Всё призрак, суета...

Всё призрак, суета,
Всё дрянь и гадость;
Стакан и красота —
Вот жизни радость.

Любовь и вино
Нам нужны равно;
Без них человек
Зевал бы весь век.

К ним лень еще прибавлю,
Лень с ими заодно;
Любовь я с нею славлю,
Она мне льет вино.
1819

61.BÀI THƠ GỬI TOLSTOY*

Nhà triết học trẻ tuổi, anh chạy trốn
Những tiệc tùng và khoái lạc của đời
Những trò chơi tuổi trẻ, anh im lặng
Nhìn bằng ánh mắt lạnh lẽo không thôi.

Đem những trò tiêu khiển của đời ta
Anh đổi lấy nỗi buồn, trò chán ngắt
Đem chén vàng khoái lạc của Orazio**
Anh đổi lấy ngọn đèn Epictetus.

Bạn tôi ơi, sẽ đến một thời gian
Anh sẽ cảm thấy u buồn hối tiếc
Cho sự quan tâm chân lý lạnh lùng
Và những suy tư hoài công vô ích.

Trời sinh ra cho người nơi trần thế
Lứa tuổi nào cũng có những niềm vui
Trên đầu bạc không còn ngân vang nữa
Những thú vui điên đảo của một thời.

Thời tuổi trẻ không còn quay lại nữa
Hãy gọi tên thú tiêu khiển ngọt ngào
Đó là cuộc tình, yêu trong vội vã
Và cơn say làm gan ruột nôn nao!

Chén khoái lạc nhớ lo mà tận hưởng
Vứt âu lo, sống hờ hững, vô tâm!
Biết lắng nghe từng khoảnh khắc cuộc sống
Và trẻ trung với tuổi trẻ của mình!
1819
_______________________-
*Yakov Nikolayevich Tolstoy (1791 – 1867) – nhà phê bình sân khấu, 
thủ lĩnh Hội “Ngọn đèn xanh”.
**Quinto Orazio Flacco (tiếng Latin: Quintus Horatius Flaccus, 65 – 8 tr. CN) – 
nhà thơ “Thế kỷ vàng” của La Mã cổ đại. 
Epictetus (55 – 135)- nhà triết học Hy Lạp cổ đại 
theo trường phái Khắc kỷ (Stoisism).


Стансы Толстому

Философ ранний, ты бежишь
Пиров и наслаждений жизни,
На игры младости глядишь
С молчаньем хладным укоризны.

Ты милые забавы света
На грусть и скуку променял
И на лампаду Эпиктета
Златой Горациев фиал.

Поверь, мой друг, она придет,
Пора унылых сожалений,
Холодной истины забот
И бесполезных размышлений.

Зевес, балуя смертных чад,
Всем возрастам дает игрушки:
Над сединами не гремят
Безумства резвые гремушки.

Ах, младость не приходит вновь!
Зови же сладкое безделье
И легкокрылую любовь,
И легкокрылое похмелье!

До капли наслажденье пей,
Живи беспечен, равнодушен!
Мгновенью жизни будь послушен,
Будь молод в юности твоей!
1819
  

62.ÔNG GIÀ

Đã
không còn say đắm một người tình
Một thuở làm cho thiên hạ đảo điên
Cả mùa xuân lẫn mùa hè cháy đ
Mãi mãi đi qua, dấu vết không còn.

Hỡi thần tình yêu của tuổi thanh xuân!
Ta xưa là kẻ phụng sự trung thành
Ô
i, giá mà được sinh ra lần nữa
Chắc gì lại đi phụng sự cho thần!
1814/15-1819
_____________
*Bản dịch bài De soi-même của Clément Marot (1496 – 1544) – nhà thơ Pháp.

Variant:
Đã không còn là người tình say đắm
Kẻ ngạc nhiên trước ánh sáng ngày nào
Mùa hạ, mùa xuân của tôi đỏ thắm
Đã qua đi muôn thuở, vết còn đâu.

Thần tình yêu, thần của tuổi thanh xuân
Tôi từng phụng sự Ngài rất chung thủy
Ái chà, giá được đầu thai lần nữa
Thì chắc gì còn phụng sự Ngài chăng!

Старик

Уж я не тот любовник страстный,
Кому дивился прежде свет:
Моя весна и лето красно
Навек прошли, пропал и след.

Амур, бог возраста младого!
Я твой служитель верный был;
Ах, если б мог родиться снова,
Уж так ли б я тебе служил!
1814/15-1819


63.TÌNH YÊU CAO THƯỢNG

Lida thân yêu , anh vẫn biết
Em đang trầm tư mặc tưởng về ai
Em dâng thời gian nhàn rỗi cho người
Và anh biết vì ai em lén lút
Giấu những cô bạn gái hay ngờ vực
Và em sợ kẻ tinh nghịch dễ thương
Kẻ quyến rũ có đôi cánh nhẹ nhàng
Bằng vẻ tự cao của mình lạnh ngắt
Em không chịu thần hôn nhân Hymen.
Em đang yêu đắm say vị thần khác
Và em nghe theo số phận của mình
Niềm hân hoan dịu dàng đến với em
Chúng tìm đi theo con đường sa mạc.
Anh hiểu trong ánh nhìn không ấm áp
Anh hiểu ra qua đôi mắt khép hờ
Và đôi má của em rất tái nhợt
Vẻ bơ phờ uể oải của dáng đi…
Thần tình yêu của em chưa dâng hết
Cho những người ái mộ đủ niềm vui.
Sự khiêm tốn trẻ trung còn thấy tiếc
Cho phần thưởng kia huyền bí của người.
Thần yêu giấc mơ tưởng tượng mà thôi
Và chịu đựng ổ khóa ngoài cánh cổng
Người bạn thẹn thùng của niềm sung sướng
Em của tình yêu nhưng lại cô đơn.
Và trong những đêm mất ngủ u buồn
Em mệt lử trong những đêm như thế
Thần bằng sức mạnh của mình huyền bí
Hồi sinh giấc mơ mộng mị của em
Thần thổn thức cùng Lida tội nghiệp
Thần bằng bàn tay êm dịu của mình
Xua giấc mơ từ nữ thần Cipris**
Và ngọt ngào sự tĩnh lặng của em.
Trong sự say mê biết mấy cô đơn
Em suy nghĩ lừa dối tình lần nữa.
Thật uổng phí! – trong tận cùng thích thú
Em lại buồn, mệt lử nữa sao em.

Thần tình yêu chẳng lẽ không nhìn ngó
Vào chốn nương nhờ tăm tối của em
Vẻ đẹp rồi như hoa kia héo úa
Những phút giây thời tuổi trẻ qua nhanh.
Có lẽ nào anh năn nỉ hoài công?
Em hãy quên những ước mơ tội lỗi
Em sẽ không đẹp như vầy mãi mãi
Mà đẹp xinh đâu phải để cho mình.
1819
_______________
* Cipris-Aphrodite – nữ thần Tình yêu.


Платоническая любовь

Я знаю, Лидинька, мой друг,
Кому в задумивости сладкой
Ты посвящаешь свой досуг,
Кому ты жертвуешь украдкой
От подозрительных подруг.
Тебя страшит проказник милый,
Очарователь легкокрылый,
И хладной важностью своей
Тебе несносен Гименей.
Ты молишься другому богу,
Своей покорствуя судьбе;
Восторги нежные к тебе
Нашли пустынную дорогу.
Я понял слабый жар очей,
Я понял взор полузакрытый,
И побледневшие ланиты,
И томность поступи твоей...
Твой бог не полною отрадой
Своих поклонников дарит.
Его таинственной наградой
Младая скромность дорожит.
Он любит сны воображенья,
Он терпит на дверях замок,
Он друг стыдливый наслажденья,
Он брат любви, но одинок.
Когда бессонницей унылой
Во тьме ночной томишься ты,
Он оживляет тайной силой
Твои неясные мечты,
Вздыхает нежно с бедной Лидой
И гонит тихою рукой
И сны, внушенные Кипридой,
И сладкий, девственный покой.
В уединенном упоенье
Ты мыслишь обмануть любовь.
Напрасно! — в самом наслажденье
Тоскуешь и томишься вновь.

   Амур ужели не заглянет
В неосвященный твой приют?
Твоя краса, как роза, вянет;
Минуты юности бегут.
Ужель мольба моя напрасна?
Забудь преступные мечты,
Не вечно будешь ты прекрасна,
Не для себя прекрасна ты.
1819


64.THƠ MADRIGAL

Các người không còn cháy lên bằng tình yêu
Hãy nhìn sang cô nàng đ mà nhận biết.
Các người đã đ cho tim mình lạnh ngắt
Hãy nhìn sang nàng đ mà lần nữa lại yêu.
1819

Мадригал М...ой

О вы, которые любовью не горели,
Взгляните на нее — узнаете любовь.
О вы, которые уж сердцем охладели,
Взгляните на нее: полюбите вы вновь.
1819


65.NGÀY 27 THÁNG 5 NĂM 1819

Buổi tiệc vui trong cuộc đời chúng mình
Ta nhớ mãi, hỡi bạn bè thân thiết
Rượu sâm banh đ vào chén thủy tinh
Dòng suối lạnh ngời lên và sủi bọt
Ta uống rượuVệ Nữ cùng chúng mình
Nàng ngồi đó, má ửng hồng bên bàn
Khi nào đó lại cùng nhau tụ họp
Cùng đàn bà, ống hút và rượu vang?
_____________
*Olsufiev Shcherbinin kể rằng: “Pushkin trong bữa tối nhà tôi St. Petersburg; rượu sâm banh ướp lạnh trước đó cả một ngày, tình cờ người đẹp của tôi đi ngang qua, mọi người đều gọi tên nàng rất vui vẻ. Puskin đã viết bài thơ này hôm ấy”.

27 мая 1819

Веселый вечер в жизни нашей
Запомним, юные друзья;
Шампанского в стеклянной чаше
Шипела хладная струя.
Мы пили - и Венера с нами
Сидела прея за столом.
Когда ж вновь сядем в четвером
С блядьми, вином и чубуками?


66.THƠ VỀ STURDZA

Làm tay sai cho ông quan to nhất
Anh hãy cám ơn số phận của mình:
Xứng vòng nguyệt quế của Herostratus
Và cái chết của Kotzebue xứng với anh.
1819
______________
*Bài thơ này về Aleksandr Sturdza (1791 – 1854) – nhà ngoại giao, nhà văn Nga; ông quan to nhất là Hoàng đế Aleksadr I; Herostratus là kẻ đã đốt đền thờ nữ thần Artemis (Diana) ở Ephesus năm 356 tr. CN để mong tên tuổi của mình sẽ trở thành bất tử; August Kotzebue (1761 -1819) – nhà văn Đức làm gián điệp cho chính phủ Nga bị một sinh viên người Đức đâm chết.

На стурдзу

Холоп венчанного солдата,
Благодари свою судьбу:
Ты стоишь лавров Герострата
И смерти немца Коцебу.
1819



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét