Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Thơ tình Puskin - Phần 5 (1825 - 1826)



82.ĐIỀU RĂN THỨ MƯỜI

Không ham muốn hạnh phúc của người khác
Đức Chúa Trời, Ngài hãy sai khiến con
Nhưng Ngài biết, sức của con có chừng
Thì tình cảm liệu con cai quản được?
Con không muốn làm phật lòng người khác
Con không ham làng mạc của người ta
Không ham hố con lừa hay con bò
Con nhìn tất cả một cách tĩnh mịch
Không nhà cửa, nô lệ hay súc vật
Con không ham ân huệ của người ta.
Nhưng mà nô lệ nữ của người thì
Đẹp tuyệt vời… Lạy Chúa! Con đuối sức!
Và chẳng lẽ bạn gái của người ta
Dễ thương như thiên thần bằng da thịt –
Con lạy Chúa! Con xin tha tội chết
Con ganh tỵ hạnh phúc của người ta.
Ai sai khiến được con tim bao giờ?
Ai nô lệ của gắng sức vô ích?
Người đáng yêu làm sao không yêu được?
Làm sao không mong sung sướng thiên đàng?
Con thở dài, con mệt mỏi, nhìn xem
Nhưng tôn trọng nghĩa tình con biết cách
Con sợ bợ đỡ ước muốn con tim
Đành im lặng… khổ đau trong bí mật.
1821
_____________
*Pushkin nhại theo “Điều răn thứ mười” trong Kinh Thánh:
- Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.  (Cựu Ước_Xuất hành, XX-17)
- Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta. (Cựu Ướcệ nhị Luật, V-21).

Десятая заповедь

Добра чужого не желать
Ты, боже, мне повелеваешь;
Но меру сил моих ты знаешь —
Мне ль нежным чувством управлять?
Обидеть друга не желаю,
И не хочу его села,
Не нужно мне его вола,
На всё спокойно я взираю:
Ни дом его, ни скот, ни раб,
Не лестна мне вся благостыня.
Но ежели его рабыня
Прелестна... Господи! я слаб!
И ежели его подруга
Мила, как ангел во плоти,—
О боже праведный! прости
Мне зависть ко блаженству друга.
Кто сердцем мог повелевать?
Кто раб усилий бесполезных?
Как можно не любить любезных?
Как райских благ не пожелать?
Смотрю, томлюся и вздыхаю,
Но строгий долг умею чтить,
Страшусь желаньям сердца льстить,
Молчу... и втайне я страдаю.
1821


83.ĐI ĐẾN NHÀ EM


Em thân yêu, anh đi đến nhà em

Ghé vào phòng khách của em lần cuối.
Đem một tình yêu hạnh phúc, yên bình
Anh chia sẻ cùng em trong giờ cuối.
Rồi sắp tới, trong hoài mong mệt mỏi
Em đừng chờ anh nhé giữa đêm đen
Trước tia nắng đầu của buổi bình minh
Em đừng thắp nến vội.

1821


В твою светлицу, друг мой нежный...

В твою светлицу, друг мой нежный,
Я прихожу в последний раз.
Любви, отрады безмятежной
Делю с тобой последний час.
Вперед одна в надежде томной
Не жди меня средь ночи темной,
До первых утренних лучей
Не жги свечей.
1821

  

84.GỬI M. E. EIKHFELDT*

Chẳng trí tuệ, chẳng áo quần
Có thể làm cho em mê đắm
Chỉ những người anh em bà con
Có thể hiểu được điều bí ẩn!
Em chẳng để cho anh yên lặng
Nhưng mà em đâu có yêu anh.
Chỉ còn Zoya là niềm hy vọng
Sẽ cưới nàng để trở thành bà con.
1821-1823
_____________
*Maria Egorovna Eikhfeldt (1798-1855) là một phụ nữ Do Thái trẻ và xinh đẹp, vợ của một vị quan ở Kishinyov và một người bạn của Pushkin cũng đang theo đuổi nàng. Một lần Maria đặt cho Pushkin viết bài thơ để ghi vào cuốn Album của mình, và thế là có bài thơ “Giê-su hồi sinhtrên đây. Người đời cho rằng Maria có vẻ ngoài rất giống Rebeccacô gái Do Thái, nhân vật nữ trong tiểu thuyếtIvanhoenổi tiếng của nhà văn Anh Walter Scott (1771-1832).

М. Е. Эйхфельдт

Ни блеск ума, ни стройность платья
Не могут вас обворожить;
Одни двоюродные братья
Узнали тайну вас пленить!
Лишили вы меня покоя,
Но вы не любите меня.
Одна моя надежда — Зоя:
Женюсь, и буду вам родня.
1821


85.NGƯỜI TÙ

Ta ngồi sau song sắt của nhà tù.
Con đại bàng non sống trong tù hãm
Người bạn buồn bã của ta vẫy cánh
Mổ miếng mồi máu đỏ dưới cửa kia.

Chim mổ, vứt, chim nhìn vào ô cửa
Như cùng ta dự tính một điều gì
Chim gọi ta bằng miệng kêu mắt ngó
Như muốn nói rằng: “Nào, hãy bay xa!

Chúng ta là những con chi tự do
Bay về sau mây đen là đồi trắng
Bay về những miền đại dương xanh thắm
Bay về nơi chỉ có gió… và ta!...”
1822

Узник

Сижу за решёткой в темнице сырой.
Вскормленный в неволе орёл молодой,
Мой грустный товарищ, махая крылом,
Кровавую пищу клюёт под окном,

Клюёт, и бросает, и смотрит в окно,
Как будто со мною задумал одно.
Зовёт меня взглядом и криком своим
И вымолвить хочет: «Давай, улетим!

Мы вольные птицы; пора, брат, пора!
Туда, где за тучей белеет гора,
Туда, где синеют морские края,
Туда, где гуляем лишь ветер… да я!…»
1822


86.GỬI CÔ GÁI NGOẠI QUỐC


Bằng ngôn ngữ mà em không thể hiểu

Anh đang làm thơ giã biệt cùng em
Nhưng trong sự hiểu lầm rất dễ chịu
Anh rất mong sự chú ý của em:
Em thân yêu, một ngày chưa héo tàn
Trong biệt ly tình cảm dù cách trở
Anh vẫn tôn sùng em như ngày đó
Chỉ mình em, chỉ riêng một mình em.
Còn em khi nhìn những nét không quen
Em chỉ tin trái tim anh em nhé
Hãy tin như em đã từng tin nó
Dù không hiểu niềm say đắm của tim.
1822

Иностранке


На языке тебе невнятном

Стихи прощальные пишу,
Но в заблуждении приятном
Вниманья твоего прошу:
Мой друг, доколе не увяну,
В разлуке чувство погубя,
Боготворить не перестану
Тебя, мой друг, одну тебя.
На чуждые черты взирая,
Верь только сердцу моему,
Как прежде верила ему,
Его страстей не понимая.
<1822>


87.GỬI NHỮNG NGƯỜI BẠN


Hôm qua là bữa tiệc để biệt ly

Bữa tiệc say tưng bừng của thần rượu
Dưới những tiếng kêu ồn ào sôi nổi
Tiếng chạm cốc và tiếng của đàn lia.

Nàng thơ đã chúc phúc cho các bạn

Bằng vòng hoa cao hơn cả mùa thu
Khi với tôi, các bạn đã dành cho
Chiếc cốc lớn một cách đầy trang trọng.

Nhìn chiếc cốc háo thắng được mạ vàng

Không làm cho những đôi mắt bị lóa
Dù không mê hoặc bằng đường chạm trổ
Hay việc đời vốn bận rộn lăng xăng.

Nhưng có điều để phân biệt được rằng

Ta uống theo cách của người Scyth
Chai rượu đầy vào chiếc cốc đã rót
Theo đường viền của nó rộng miên man.

Tôi uống – và bằng ý nghĩ chân thành

Đã bay về những ngày trong quá khứ
Đã hồi tưởng những giấc mộng của tình
Và khổ đau của đời trôi vội vã.

Tôi buồn cười với những ai phụ bạc:

Và nỗi đau biến mất trước mặt tôi
Như bọt biến mất trong chiếc cốc này
Sau tiếng kêu lèo xèo khi vừa rót.
1822
_______________
*Bài thơ về bữa tiệc chia tay với một người bạn của Pushkin. Trong bữa tiệc này, những người bạn của Pushkin đều là những người lính và công chức, họ uống rượu bằng những chiếc cốc to mang về từ mặt trận và Pushkin được dành cho chiếc cốc to nhất. Theo mô tả của Pushkin thì họ đã uống rượu theo cách của người Scyth – một bộ lạc chăn gia súc và du mục thời cổ đại.

Друзьям

Вчера был день разлуки шумной,
Вчера был Вакха буйный пир,
При кликах юности безумной,
При громе чаш, при звуке лир.

Так! Музы вас благословили,
Венками свыше осеня,
Когда вы, други, отличили
Почетной чашею меня.

Честолюбивой позолотой
Не ослепляя наших глаз,
Она не суетной работой,
Не резьбою пленяла нас;

Но тем одним лишь отличалась,
Что, жажду скифскую поя,
Бутылка полная вливалась
В ее широкие края.

Я пил — и думою сердечной
Во дни минувшие летал
И горе жизни скоротечной,
И сны любви воспоминал;

Меня смешила их измена:
И скорбь исчезла предо мной,
Как исчезает в чашах пена
Под зашипевшею струей.
<1822>


 
88.NÀNG CLARICA CHẲNG CÓ TIỀN

Nàng Clarice chẳng có tiền
Bạn giàu có – hãy đội lên vương miện
Đem sự giàu có hiến tặng cho nàng
Những chiếc sừng sẽ hiện trước mặt bạn.
1822

У Кларисы денег мало...

У Кларисы денег мало,
Ты богат; иди к венцу:
И богатство ей пристало,
И рога тебе к лицу.
1822


89.CHẲNG PHẢI ANH

Chẳng phải anh từng đ ý đến em
Giữa đám bạn gái thẹn thùng e ấp
Chẳng phải mắt em lần đầu anh gặp
Chẳng phải anh là người bạn đầu tiên?
1823

Скажи — не я ль тебя заметил...

Скажи — не я ль тебя заметил
В толпе застенчивых подруг,
Твой первый взор не я ли встретил,
Не я ли был твой первый друг?
1823


90.CON CHIM NHỎ

Nơi xứ lạ tôi nhìn rất thành kính
Tập tục thời xưa cổ vốn thân quen:
Và tôi đã phóng sinh một con chim
Trong ngày lễ mùa xuân đầy ánh sáng.

Niềm an ủi đến với tôi gần hẳn
Thì Chúa Trời tôi đâu có phàn nàn
Khi mà dù chỉ là một sinh linh
Tôi có thể đem tự do ban tặng!
1823
__________________
*Pushkin phóng sinh chim ở Kishinyov trong ngày lễ Phục Sinh.

Птичка

В чужбине свято наблюдаю
Родной обычай старины:
На волю птичку выпускаю
При светлом празднике весны.

Я стал доступен утешенью;
За что на бога мне роптать,
Когда хоть одному творенью
Я мог свободу даровать!
1823


91.GỬI NỮ BÁ TƯỚC ORLOVA-CHESMENSKAYA*

Người vợ ngoan đạo kia
Linh hồn dâng cho Chúa
Còn xác thân lầm lỡ
Dâng Giám mục Foty.
1822-1824
_____________
*Nữ Ba tước Anna Alekseyevna Orlova-Chesmenskaya (1785-1848) nhận Giám mục Foty (tên ngoài đời là Pyotr Nikitich Spassky (1792-1838) làm cha đỡ đầu và thế rồi sinh ra những đồn đoán của người đời về quan hệ luyến ái giữa hai người.

Гр. Орловой-Чесменской

Благочестивая жена
Душою богу предана,
А грешной плотию
Архимандриту Фотию.
1822-1824


92.TRÒ CHUYỆN GIỮA FOTY VÀ ORLOVA

Em hãy nghe những lời anh nói nhé:
Xác anh là hoạn quan, hồn là chồng”.
Nhưng anh đang làm gì cùng em thế?
Bây giờ anh đang biến xác thành hồn”.
1822-1824

Разговор Фотия с гр. Орловой

«Внимай, что я тебе вещаю:
Я телом евнух, муж душой».
— Но что ж ты делаешь со мной?
«Я тело в душу превращаю».
1822-1824


93.THƠ CHO FOTY


Một nửa cuồng tín, nửa tráo trở

Ngài dùng vũ khí của tâm linh
Thập ác, roi, gươm, lời nguyền rủa.
Hãy cho chúng tôi, những kẻ lỗi lầm
Có ít những người chăn chiên như thế -
Một nửa gàn dở, nửa thánh thần.
1824

На Фотия


Полу-фанатик, полу-плут;

Ему орудием духовным
Проклятье, меч, и крест, и кнут.
Пошли нам, господи, греховным
Поменьше пастырей таких,—
Полу-благих, полу-святых.
1824



94.THÔI HẾT RỒI

Thôi hết rồi: không còn dan díu nữa
Lần cuối cùng anh ôm lấy chân em
Và những lời cay đắng đã thốt lên
Thôi hết rồilời em anh nghe rõ.

Anh sẽ không lần nữa tự dối mình
Không ám ảnh nỗi buồn về em nữa
Có thể rồi đây sẽ quên quá khứ
Tình yêu này không phải để cho anh.

Em trẻ trung: cao đẹp tâm hồn em
Rồi yêu em hãy còn vô khối kẻ.
1824

Всё кончено: меж нами связи нет

Всё кончено: меж нами связи нет.
В последний раз обняв твои колени,
Произносил я горестные пени.
Всё кончено — я слышу твой ответ.
Обманывать себя не стану вновь,
Тебя тоской преследовать не буду,
Прошедшее, быть может, позабуду —
Не для меня сотворена любовь.
Ты молода: душа твоя прекрасна,
И многими любима будешь ты.
1824


95.THƠ TRÀO PHÚNG

Một nửa quí ông, nửa đểu cáng
Một nửa thông minh, nửa ngu đần
Một nửa con buôn, nhưng hy vọng
Cuối cùng rồi cũng sẽ toàn phần.
1824
_______________
*Bài thơ trào phúng về Bá tước Mikhail Semyonovich Vorotsov (1782-1856), ông là một vị tướng và là thống đốc vùng Novorossiya (miền Đông Ukraina ngày nay). Puskin từng làm việc ở văn phòng của Vorontsov trong các năm 1823-1824. Quan hệ của họ không được tốt đẹp do Pushkin yêu vợ của ông, và sau đó Puskin bị điều từ Odessa về Mikhailovskoe (Moskva).
Một nửa quí ông – ý ám chỉ việc Vorontsov được giáo dục ở Anhng là con của Đại sứ Nga ở London).
Một nửa con buôn – ám chỉ Vorontsov luôn quan tâm đến việc buôn bán qua cảng Odessa.

Полу-милорд, полу-купец

Полу-милорд, полу-купец,
Полу-мудрец, полу-невежда,
Полу-подлец, но есть надежда,
Что будет полным наконец.
1824


96.MỘT KHI MÀ


Một khi mà, người đẹp ạ, đấng lang quân

Giữa sáu người hãy còn chưa chọn lựa –
Em hãy ra dòng suối gần ngôi mộ
Và hãy lấy tay múc mạch nước nguồn
Em hãy nghĩ xem, cô gái mến thương
Dòng nước kia không còn quay lại nữa
Sáng ngời lên rồi chạy, biến mất tăm –
Thì thời gian của đời ta cũng thế
Anh sẽ biến mất khỏi chốn khuê phòng.
1824

Пока супруг тебя, красавицу младую


Пока супруг тебя, красавицу младую,

Между шести других еще не заключил,—
Ходи к источнику могил
И черпай воду ключевую,
И думай, милая моя:
Как невозвратная струя
Блестит, бежит и исчезает —
Так жизни время убегает,
В гареме так исчезну я.

  
97.THƠ CHO BÉ SƠ SINH

Bé con ơi, quả thực không dám nói
Một lời gì để chúc phúc cho con.
Con là thiên thần của niềm an ủi
Bằng tâm hồn tĩnh lặng, ánh mắt nhìn.

Sẽ có cho con những ngày tươi sáng
Như ánh nhìn của con lúc này đây.
Trên trần gian này biết bao số phận
Thì số phận của con sẽ tuyệt vời.
1824
________________
*Căn cứ vào bản nháp có những câu viết dở người ta cho rằng đây là bài thơ về đứa bé con ngoài giá thú của Pushkin. Nên biết rằng Pushkin có đến 113 người tình (thống kê được) còn thực tế thì chắc chắn còn nhiều hơn.

Младенцу

Дитя, не смею над тобой
Произносить благословенья.
Ты взором, мирною душой,
Небесный ангел утешенья.
Да будут ясны дни твои,
Как милый взор твой ныне ясен.
Меж лучших жребиев земли
Да будет жребий твой прекрасен.
1824

98.NƠI TRÚ ẨN CỦA TÌNH


Nơi trú ẩn của tình luôn đầy ắp

Sự mát mẻ ẩm ướt và tối tăm
Ở nơi đó không bao giờ im bặt
Tiếng rì rào những con sóng ngượng ngùng.
1824

Приют любви, он вечно полн


Приют любви, он вечно полн

Прохлады сумрачной и влажной,
Там никогда стесненных волн
Не умолкает гул протяжный.
1824


99.THIẾU NỮ - HOA HỒNG


Ôi thiếu nữ - hoa hồng, anh bị cùm

Nhưng không xấu hổ vì cùm của em:
Như con họa mi trên cành nguyệt quế
Là ông hoàng trong vương quốc của chim

Bên hoa hồng kiêu hãnh và tuyệt trần

Chim sống trong cảnh tù đày dịu ngọt
Dịu dàng ca cho nàng bao khúc hát
Trong bóng tối đầy mê đắm của đêm.
1824

О дева-роза, я в оковах


О дева-роза, я в оковах;

Но не стыжусь твоих оков:
Так соловей в кустах лавровых,
Пернатый царь лесных певцов,
Близ розы гордой и прекрасной
В неволе сладостной живет
И нежно песни ей поет
Во мраке ночи сладострастной.
1824



100.TỪ BỨC THƯ GỬI VULF*

Xin chào Vulf, người bạn của tôi!
Mùa đông bạn hãy đến nơi này
Và nhớ là nhà thơ Yazykov
Hãy rủ anh ta cùng đến với tôi
Giờ là lúc ta cưỡi ngựa dạo chơi
Là lúc cùng nhau bắn từ súng lục.
Laionngười anh có mái tóc xoăn
(Không phải anh chàng ở Mikhailov)
Sẽ chở đến cho chúng ta, quả thật
Cái gì ư? Rượu đầy cả một thùng.
Ta sẽ đóng kín cửa, hãy lặng im!
Sự kỳ diệulà cuộc đời ẩn dật!
Ở Triegorsk uống đến tận đêm
Và đến sáng ở trang trại Mikhailov
Những ngày của ta dâng cho tình hết
Những cốc đầy sẽ ngự trị hằng đêm
Tanhững kẻ say sưa như người chết
Những kẻ yêu như sắp chết trong tình.
1824
_____________
*Aleksei Nikolayevich Vulf (1805 – 1881) – anh trai của Anna Nikolaevna Vulf (Netty; N W), bạn của Puskin và nhà thơ Nikolay Mikhailovich Yazykov (1803 – 1846).

Из письма к Вульфу

Здравствуй, Вульф, приятель мой!
Приезжай сюда зимой,
Да Языкова поэта
Затащи ко мне с собой
Погулять верхом порой,
Пострелять из пистолета.
Лайон, мой курчавый брат
(Не михайловский приказчик),
Привезет нам, право, клад...
Что? — бутылок полный ящик.
Запируем уж, молчи!
Чудо — жизнь анахорета!
В Троегорском до ночи,
А в Михайловском до света;
Дни любви посвящены,
Ночью царствуют стаканы,
Мы же — то смертельно пьяны
То мертвецки влюблены.
1824


101.GIÓ BẮC

Tại vì sao hở gió bắc dữ dằn
Ngươi làm cây sậy ven bờ cúi xuống?
Tại vì sao với đám mây nổi giận
Xua chúng về tận bờ bến xa xăm?

Mới đây thôi dãy những đám mây đen
Bao phủ kín làm bầu trời điếc nặng
Mới đây thôi cây sồi cao ngất ngưỡng
Trong vẻ đẹp đầy kiêu hãnh trang nghiêm…

Nhưng vì hiếu động ngươi nhảy cẫng lên
Gào lên bằng vinh quanh và nguy hiểm
Ngươi xua hết những đám mây trĩu nặng
Quật đổ cây sồi kiêu hãnh trang nghiêm.

Hãy để cho ánh mặt trời rõ ràng
Kể từ nay tỏ ra niềm hoan hỉ
Còn đám mây hãy dành cho gió nhẹ
Để gió vuốt ve cây sậy nhẹ nhàng.
1824

Аквилон

Зачем ты, грозный аквилон,
Тростник прибрежный долу клонишь?
Зачем на дальний небосклон
Ты облачко столь гневно гонишь?

Недавно черных туч грядой
Свод неба глухо облекался,
Недавно дуб над высотой
В красе надменной величался...

Но ты поднялся, ты взыграл,
Ты прошумел грозой и славой -
И бурны тучи разогнал,
И дуб низвергнул величавый.

Пускай же солнца ясный лик
Отныне радостью блистает,
И облачком зефир играет,
И тихо зыблется тростник.
1824


102.THƠ VỀ VORONTSOV

Ca sĩ Đa-vít có vóc dáng nhỏ nhoi
Nhưng đã thắng người khổng lồ Gô-lit
Cũng là vị tướng từng xông pha trận mạc
Chẳng hề giản đơn hơn vị Bá tước kia.
1824
____________
*Puskin so sánh cuộc đấu tranh tinh thần giữa ông và cấp trên của ông là Bá tước Mikhail Semyonovich Vorontsov (1782 – 1856) với cuộc đấu giữa ca sĩ Đa-vít với gã khổng lồ Goliath trong Kinh Thánh Cựu Ước (I Sa-mun 17: 49 – 51).

Эпиграмма на Воронцова

Певец-Давид был ростом мал,
Но повалил же Голиафа,
Который был и генерал,
И, положусь, не проще графа.
1824


103.DỊCH TỪ TIẾNG BỒ ĐÀO NHA

Nơi ngôi sao hiện lên
Và hoa hồng nở rộ
Chính trong thời khắc đó
Gọi ta đến với mình.

Trên chiếc giường bằng lông
Em đưa tay mơ màng
Chùi đôi mắt mệt lử
Xua giấc mộng của đêm.

Và hình dáng của em
Bên cánh cửa, bên thềm
Sáng hơn sao buổi sớm
Tươi mát hơn hoa hồng.

Hễ anh nhìn thấy em
Thấy xung quanh nhẹ nhàng
Tràn không khí buổi sáng
Và anh tự do hơn.

Giữa đám cừu của làng
Có người đẹp của anh
Con cừu yêu thương nhất
Anh dẫn ra bờ sông.

Trên những bờ bóng râm
Trên những đồng cỏ xanh
Anh hôn nàng, ve vuốt
Gieo những bông hoa tình.

Em đi đến bên anh
Ghé lại trong yên bình
Anh đón chào người đẹp
Cầm ghi ta hát lên:

Em niềm vui của anh
Dễ thương nhất trên trần
Dưới trăng này ai dám
Rằng hạnh phúc hơn mình?

Anh không ghen vua chúa
Không ghen với thánh thần
Nhìn đôi mắt mệt lử
Dáng mảnh, mái tóc đen”.

Anh đã từng hát lên
Cho người đẹp của mình
Con tim từng hoan hỉ
Nhưng khoái lạc qua nhanh.

Đâu người đẹp của anh!
Giờ thầm khóc một mình
Và nước mắt vô vọng
Thay lời hát dịu dàng.
1825
_____________
*Đây là bài Puskin dịch mô phỏng bài thơ Recordações (Hoài niệm) của nhà thơ Bồ Đào Nha Tomás Antônio Gonzaga (1744 – 1810) nhưng Puskin không phải dịch từ tiếng Bồ mà là từ bản tiếng Pháp (“Marilie, chants élégiaques de Gonzaga, traduits par E. Monglave et P. Chalas”, Paris, 1825) nên ông rút gọn phần giữa theo ý mình, thành ra một bài thơ của Puskin.

С португальского

Там звезда зари взошла,
Пышно роза процвела.
Это время нас, бывало,
Друг ко другу призывало.

На постеле пуховой,
Дева сонною рукой
Отирала томны очи,
Удаляя грезы ночи.

И являлася она
У дверей иль у окна
Ранней звездочки светлее,
Розы утренней свежее.

Лишь ее завижу я,
Мнилось, легче вкруг меня
Воздух утренний струился;
Я вольнее становился.

Меж овец деревни всей
Я красавицы моей
Знал любимую овечку —
Я водил ее на речку,

На тенистые брега,
На зеленые луга;
Я поил ее, лелеял,
Перед ней цветы я сеял.

Дева издали ко мне
Приближалась в тишине,
Я, прекрасную встречая,
Пел, гитарою бряцая:

«Девы, радости моей
Нет! на свете нет милей!
Кто посмеет под луною
Спорить в счастии со мною?

Не завидую царям,
Не завидую богам,
Как увижу очи томны,
Тонкий стан и косы темны».

Так певал, бывало, ей,
И красавицы моей
Сердце песнью любовалось;
Но блаженство миновалось.

Где ж красавица моя!
Одинокий плачу я —
Заменили песни нежны
Стон и слезы безнадежны.
1825


104.ANH BẠN FITA

Anh bạn Fita là Kyteikin mặc quân phục
Lẩm bẩm cho ta bài thánh vịnh kéo dài
Nhà thơ Fita, anh không thể chống tay!
Chú Fita, chú trong các nhà thơ là xếp chót.
1825
_____________
*Đây là bài thơ mà Puskin nhại lại bài thánh vịnh của nhà thơ Fyodor Nikolaevich Glinka (1786 – 1880) in trong các tạp chí. Fita – là cách viết theo lối cũ của tên Fyodor; Kyteikin – là tên một nhân vật trong một vở kịch của Denis Ivanovich Fonvizin (1745 – 1792); mặc quân phục (tức ngù vai - в эполетах trong nguyên bản) – Glinka là Đại tá quân đội; Chống tay (Ферто̀м trong nguyên bản) – chỉ cách đứng tay chống nạnh; xếp chót (Ижица - Ѷ trong nguyên bản) – đây là chữ cái cuối cùng của bảng alphabê Nga cũ.

Наш друг Фита, Кутейкин в эполетах

Наш друг Фита, Кутейкин в эполетах,
Бормочет нам растянутый псалом:
Поэт Фита, не становись Ферто̀м!
Дьячок Фита, ты Ижица в поэтах!
1825


105.GỬI NHỮNG NGƯỜI BẠN*

Kẻ thù của tôi, hiện tôi chưa nói một lời
Có vẻ dường như cơn giận nhanh biến mất
Nhưng không để các người khỏi tầm nhìn của tôi
Một khi nào đó tôi sẽ chọn một ai đó khác
Người chẳng thể nào chạy khỏi móng vuốt này
Như con chim ưng bất ngờ không thương xót
Đang lượn vòng vèo bay giữa trời mây
Và canh chừng cho ngỗng với gà tây.
1825
_____________
*Những người bạn ở đây Puskin dùng theo nghĩa là những kẻ thù chính trị của ông.

Враги мои, покамест я ни слова

Враги мои, покамест я ни слова...
И, кажется, мой быстрый гнев угас;
Но из виду не выпускаю вас
И выберу когда-нибудь любого:
Не избежит пронзительных когтей,
Как налечу нежданный, беспощадный.
Так в облаках кружится ястреб жадный
И сторожит индеек и гусей.
1825


106.THƠ VỀ ALESANDR I

Ông được dạy dỗ lớn lên sau tiếng trống rền
Sa Hoàng của ta từng là một Đai úy hiên ngang:
Trong trận Tam Hoàng ông đã từng bỏ chạy
Còn trong năm 1812 ông đã rùng mình
Chỉ được một điều là thói thích duyệt binh
Nhưng thói này bây giờ ông chán ngấy
Giờ ông chỉ như một công chức quèn
Trong phần việc bang giao cùng thế giới.
1825
___________
*Bài thơ về Hoàng đế Aleksandr I (1777 – 1825). Lớn lên sau tiếng trống rền – thời trẻ Aleksandr I sống trong vùng có các đội vệ binh tập duyệt; Giờ ông chỉ như một công chức quèn (Коллежский асессор trong nguyên bản) – chỉ sự thật bại về đối ngoại trong Hội nghị các quốc gia châu Âu ở Saint Petersburg tháng 2 năm 1825, nơi mà ông là vị Quốc vương duy nhất; Trận Tam Hoàng – tức Trận Austerlitz (phát âm tiếng Việt: Ao-xtéc-lích).

На Александра I

Воспитанный под барабаном,
Наш царь лихим был капитаном:
Под Австерлицем он бежал,
В двенадцатом году дрожал,
Зато был фрунтовой профессор!
Но фрунт герою надоел —
Теперь коллежский он асессор
По части иностранных дел!
1825


107.CHUYỂN ĐỘNG

Không có chuyển động, một người khôn ngoan nói
Người kia lặng lẽ đi trước mặt người khôn
Anh ta không thể phản đối mạnh hơn
Tất cả đều khen câu trả lời khó hiểu.

Nhưng những quí ông trước trường hợp nọ
Đưa ra cho tôi một ví dụ thế này:
Rằng mặt trời vẫn chuyển động hàng ngày
Tuy nhiên, Galileo bướng bỉnh kia có lý.
1825

Движение

Движенья нет, сказал мудрец брадатый.
Другой смолчал и стал пред ним ходить.
Сильнее бы не мог он возразить;
Хвалили все ответ замысловатый.
Но, господа, забавный случай сей
Другой пример на память мне приводит:
Ведь каждый день пред нами солнце ходит,
Однако ж прав упрямый Галилей.
1825


108.CÓ CHUYỆN GÌ VẬY HẢ

Có chuyện gì vậy hả, người anh em?
Mà bạn tái nhợt như người phạm thượng
Những sợi tóc tươi tốt mọc như rừng!
Có phải tại vì cô gái trẻ trung
Bên bờ giậu nhà mình bắt được bạn
Và coi bạn như một tên kẻ trộm
Liền vội vàng vác dao đuổi sau lưng?
Hay tại vì ma ám bạn cuống cuồng
Hay tại vì những lỗi lầm rất nặng
Bạn bị hành hạ bởi nguồn xúc cảm
Rất lạ lùng nên bạn làm thơ chăng?
1825

Variant:
Người anh em, nói xem tại vì sao?
Mà tội nghiệp như một người phạm thánh
Những sợi tóc như ngọn đồi dựng đứng!
Hay là anh với cô gái trẻ nào
Rồi bị người ta bắt ngay hàng rào
Người ta coi anh như là tên trộm
Anh chạy đi người ta đuổi theo sau?
Hay bối rối vì bóng ma thơ thẩn
Hay tại vì những lỗi lầm rất nặng
Rồi khổ đau vì xúc cảm hoang vu
Nên người anh em vội đi làm thơ?
1825

Что с тобой, скажи мне, братец?

Что с тобой, скажи мне, братец.
Бледен ты, как святотатец,
Волоса стоят горой!
Или с девой молодой
Пойман был ты у забора,
И, приняв тебя за вора,
Сторож гнался за тобой,
Иль смущен ты привиденьем,
Иль за тяжкие грехи,
Мучась диким вдохновеньем,
Сочиняешь ты стихи?
1825


Mô phỏng Kinh Koran
(Подражание Корану)

109=V. ĐẤT ĐỨNG YÊN

Đất đứng yênbầu trời
Đấng sáng tạo, nhờ Ngài
Mà hạn hán, lụt lội
Không làm khổ con người.

Ngài tạo nên mặt trời
Soi tỏ trời và đất
Như lanh được tưới dầu
Đèn pha lê trong suốt.

Hãy cầu Đấng toàn năng
Trong những ngày oi bức
Ngài cho đám mây đen
Để mặt đất bóng mát.

Ngài trao Mahômét
Kinh Koran diệu kỳ
Nguồn sáng để xua đi
Màn sương từ đôi mắt.
1824

V

Земля недвижна — неба своды,
Творец, поддержаны тобой,
Да не падут на сушь и воды
И не подавят нас собой.

Зажёг ты солнце во вселенной,
Да светит небу и земле,
Как лён, елеем напоенный,
В лампадном светит хрустале.

Творцу молитесь; он могучий:
Он правит ветром; в знойный день
На небо насылает тучи;
Даёт земле древесну сень.

Он милосерд: он Магомету
Открыл сияющий Коран,
Да притечём и мы ко свету,
И да падёт с очей туман.


110=VI. CÁC CON MƠ THẤY TA

Các con mơ thấy ta chẳng uổng công
Vào trận đánh với mái đầu cạo trọc
Với những thanh kiếm máu tươi đẫm ướt
Trong chiến hào và trên tháp, trên tường.

Hãy lắng nghe tiếng hò reo hân hoan
Ôi những đứa con của vùng sa mạc!
Đem bỏ tù những nô lệ bị bắt
Hãy sẻ chia chiến lợi phẩm của mình!

Các con chiến thắng, vinh quang cho các con
Hãy nhạo báng những kẻ nào bạc nhược!
Những kẻ đã không đi vào trận mạc
Và những giấc mơ kỳ diệu không tin.

Chiến lợi phẩm làm đắm đuối mê hồn
Những người mới giờ ăn năn hối hận:
Xin cho họ được đi vào trận đánh
Nhưng các con trả lời họ rằng: không.

Phước cho ai trong trận mạc bỏ mình
Bởi giờ đây đã về nơi cực lạc
Họ đã đắm chìm trong niềm hạnh phúc
Không còn gì đầu độc ở trần gian.
1824

VI

Не даром вы приснились мне
В бою с обритыми главами,
С окровавленными мечами,
Во рвах, на башне, на стене.

Внемлите радостному кличу,
О дети пламенных пустынь!
Ведите в плен младых рабынь,
Делите бранную добычу!

Вы победили: слава вам,
А малодушным посмеянье!
Они на бранное призванье
Не шли, не веря дивным снам.

Прельстясь добычей боевою,
Теперь в раскаянье своём
Рекут: возьмите нас с собою;
Но вы скажите: не возьмём.

Блаженны падшие в сраженье:
Теперь они вошли в эдем
И потонули в наслажденьи,
Не отравляемом ничем.


111=VII. KẺ NHÚT NHÁT HÃY ĐỨNG LÊN

Kẻ nhút nhát, hãy đứng lên
Trong hang động của mình
Và ngọn đèn thần thánh
Cháy đến tận bình minh.

Bằng cầu nguyện chân thành
Nhà tiên tri hãy đuổi
Những nghĩ suy buồn tủi
Những giấc mộng tinh ranh!

Lời nguyện cầu hãy viết
Đến tận buổi bình minh
Cuốn sách trời hãy đọc
Đến tận buổi bình minh!
1824

VII

Восстань, боязливый:
В пещере твоей
Святая лампада
До утра горит.
Сердечной молитвой,
Пророк, удали
Печальные мысли,
Лукавые сны!
До утра молитву
Смиренно твори;
Небесную книгу
До утра читай!


112=VIII. BUÔN BÁN LƯƠNG TÂM

Buôn bán lương tâm trước cảnh nghèo hèn
Đừng bố thí bằng bàn tay hơn thiệt
Sự hào phóng luôn theo ý trời xanh.
Ngày phán xét như cánh đồng tươi tốt
Hỡi người đi gieo hạt giống bình an!
Ơn huệ gấp ngàn lần ngươi có được.

Nhưng nếu thấy tiếc cho thói tham lam
Hãy bố thí người nghèo, dù ít ỏi
Nắm chặt bàn tay ganh tỵ của mình
Hãy nhớ rằng món quà như nắm bụi
Rồi cơn mưa trên đá xóa sạch trơn
Và cống vật Thượng Đế luôn từ chối.
1824

VIII

Торгуя совестью пред бледной нищетою,
Не сыпь своих даров расчётливой рукою:
Щедрота полная угодна небесам.
В день грозного суда, подобно ниве тучной,
      О сеятель благополучный!
Сторицею воздаст она твоим трудам.

Но если, пожалев трудов земных стяжанья,
Вручая нищему скупое подаянье,
Сжимаешь ты свою завистливую длань, —
Знай: все твои дары, подобно горсти пыльной,
      Что с камня моет дождь обильный,
Исчезнут — господом отверженная дань.



113.CHỒNG GIÀ, CHỒNG HUNG DỮ

Chồng già, chồng hung dữ*
Hãy chém, đốt tôi nào:
Tôi cương quyết không sợ
Dù lửa đốt, dù dao.

Tôi đây căm thù ông
Tôi đây khinh bỉ ông
Tôi đã yêu người khác
Tôi chết vẫn yêu chàng.

Hãy chém, đốt tôi nào
Tôi không nói một câu
Chồng già, chồng hung dữ
Không biết được chàng đâu.

Chàng tươi hơn mùa xuân
Nóng bỏng hơn ngày hạ
Chàng can đảm, tươi trẻ!
Chàng yêu tôi vô cùng!

Tôi đã ve vuốt chàng
Trong yên lặng của đêm!
Rồi cả hai cười nhạo
Mái đầu bạc của ông!
1824
______________
*Đoạn trích từ trường ca “Những người Digan” (Цыганы).

Цыганы
…………………………
Старый муж, грозный муж,
260
 Режь меня, жги меня:
Я тверда; не боюсь
Ни ножа, ни огня.

Ненавижу тебя,
Презираю тебя;
265
 Я другого люблю,
Умираю любя.

Режь меня, жги меня;
Не скажу ничего;
Старый муж, грозный муж,
Не узнаешь его.

275
 Он свежее весны,
Жарче летнего дня;
Как он молод и смел!
Как он любит меня!

Как ласкала его
280
 Я в ночной тишине!
Как смеялись тогда
Мы твоей седине!
1824

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét