Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Thơ Pushkin - Phần 8 (1827 - 1829)



156.NGÀY 19 THÁNG 10 NĂM 1827

Đ
ức Chúa Trời phù hộ cho các bạn
Trong những âu lo phục vụ Nga hoàng
Trong những bí ẩn ngào ngọt của tình
Và trong tiệc tùng say sưa tình bạn!

Đ
ức Chúa Trời phù hộ cho các bạn
Trong bão giông, trong đau khổ đời thường
Trong vực thẳm tăm tối ở trần gian
Và nơi xứ lạ, và trên biển vắng.
1827

19 октября 1827

Бог помочь вам, друзья мои,
В заботах жизни, царской службы,
И на пирах разгульной дружбы,
И в сладких таинствах любви!
Бог помочь вам, друзья мои,
И в бурях, и в житейском горе,
В краю чужом, в пустынном море,
И в мрачных пропастях земли!
1827


157.MÙA XUÂN LÀ LÚC CỦA TÌNH YÊU

Mùa xuân là lúc của tình yêu
Mà sao tôi khổ với xuân về
Nỗi niềm xao xuyến bao thờ thẫn
Dâng đầy trong máu, ngập hồn tôi
Hạnh phúc xa lạ với lòng này
Những gì lấp lánh và vui sướng
Mang về buồn chán, khổ đau thôi.

Cho tôi bão tuyết và gió cuốn
Màn đêm tăm tối của đông dài.
1827

Весна, весна, пора любви

Весна, весна, пора любви,
Как тяжко мне твое явленье,
Какое томное волненье
В моей душе, в моей крови...
Как чуждо сердцу наслажденье...
Всё, что ликует и блестит,
Наводит скуку и томленье.
———
Отдайте мне метель и вьюгу
И зимний долгий мрак ночей.
1827


158.THIÊN THẦN

Một thiên thần đứng trước cửa thiên đàng
Tỏa sáng bằng mái đầu hơi cúi xuống
Còn quỉ sứ tăm tối và hung hăng
Đ
ang bay lượn ở trên bờ vực thẳm.

Linh hồn nghi ngờ, linh hồn phủ nhận
Nhìn sang linh hồn rất mực trắng trong
Cơn nóng vô tình của niềm xúc động
Quỉ mơ hồ cảm thấy lần đầu tiên.

Ta thấy ngươiquỉ nóita xin lỗi
Ngươi cho ta tỏa sáng chẳng vô tình:
Ta đâu khinh tất cả trong thế giới
Đâ
u căm thù mọi thứ ở trời xanh”.
***
Variant:
Trên cánh cửa Eden một thiên thần
Với vẻ dịu dàng cúi đầu tỏa sáng
Còn quỉ sứ tối tăm và nổi loạn
Trên vực sâu địa ngục lượn vòng quanh.

Linh hồn nổi loạn, linh hồn nghi ngờ
Đã nhìn ngó vào linh hồn trong sạch
Cơn nóng vô tình của lòng cảm kích
Lần đầu tiên hồn cảm nhận lơ mơ.

“Xin lỗi nhé, ta đã nhìn thấy ngươi
Chẳng vô tình, cho ta, ngươi tỏa sáng:
Không mọi thứ trên trời ta căm giận
Không coi khinh hết mọi thứ trên đời”.
1827

Ангел
В дверях эдема ангел нежный
Главой поникшею сиял,
А демон, мрачный и мятежный,
Над адской бездною летал.

Дух отрицанья, дух сомненья
На духа чистого взирал
И жар невольный умиленья
Впервые смутно познавал.

«Прости,— он рек,— тебя я видел,
И ты недаром мне сиял:
Не всё я в небе ненавидел,
Не всё я в мире презирал».
1827 


159.TRONG VẺ TƯƠI MÁT CỦA ĐÀI PHUN NƯỚC

Trong vẻ tươi mát của đài phun nước
Và những bức tường nước tóe xung quanh
Có nhà thơ an ủi những vị quan
Bằng những vần thơ phun châu nhả ngọc.

Trên sợi chỉ của niềm vui nhàn rỗi
Được ông xâu bằng cánh tay khôn ngoan
Những lời tán dương trong suốt thành chuỗi
Thành những tràng hạt lời khôn ngoan vàng.

Con cháu Saadi từng yêu mến Krym
Từng yêu mến những lời hay ý đẹp
Đã phát triển những tập thơ của mình
Và trước Bakhchysarai* từng kinh ngạc.

Và những câu chuyện của ông lần lượt
Trải ra như những tấm thảm Erivan
Chúng từng trang điểm cho bao bữa tiệc
Của dòng họ Giray ở Krym.

Nhưng chưa một ai có được phép tiên
Trong số những kẻ tài năng trời phú
Nghĩ ra lời có sức mạnh dữ dằn
Những câu chuyện và thơ hay như thế.

Như những lời có cánh và sâu xa
Của nhà thơ xứ sở kia huyền bí
Nơi những ông chồng dữ dội, xù xì
Còn những người vợ sánh ngang tiên nữ.
1828
__________
*Nhà thơ mà Pushkin nói đến trong bài thơ này là Adam Mickiewicz (1798 – 1855), nhà thơ Ba Lan, tác giả của tập thơ “The Crimean Sonnetsnổi tiếng, mặc dầu đầu thế kỷ XX từng có ý kiến cho đây là Shota Rustaveli (1160 – 1216), nhà thơ Gruzia.
** Bakhchysaraithành phố ở bán đảo Krym.


В прохладе сладостной фонтанов

В прохладе сладостной фонтанов
И стен, обрызганных кругом,
Поэт, бывало, тешил ханов
Стихов гремучим жемчугом.

На нити праздного веселья
Низал он хитрою рукой
Прозрачной лести ожерелья
И чётки мудрости златой.

Любили Крым сыны Саади,
Порой восточный краснобай
Здесь развивал свои тетради
И удивлял Бахчисарай.

Его рассказы расстилались,
Как эриванские ковры,
И ими ярко украшались
Гиреев ханские пиры.

Но ни один волшебник милый,
Владетель умственных даров,
Не вымышлял с такою силой,
Так хитро сказок и стихов,

Как прозорливый и крылатый
Поэт той чудной стороны,
Где мужи грозны и косматы,
А жёны гуриям равны.
<1828>


160.LINH CẢM

Một lần nữa mây đen trên đầu tôi
Tôi chuẩn bị, tập trung trong im lặng
Số phận ganh tỵ cho tôi tai nạn
Đưa nó ra một lần nữa dọa tôi
Liệu tôi nên khinh bỉ số phận này
Hay sẽ mang ra để làm đối trọng
Sự nhẫn nại và tấm lòng kiên định
Và lòng tự hào tuổi trẻ của tôi?

Tôi mệt lả trước giông bão cuộc đời
Tôi dửng dưng, bão tố tôi chờ đợi
Mà có thể, sẽ có niềm cứu rỗi
Tôi lại tìm ra được bến bờ vui…
Nhưng tôi linh cảm ra cảnh chia lìa
Linh cảm giờ dữ dằn, không tránh khỏi
Tôi vội vàng, để trong lần sau cuối
Nắm bàn tay thiên thần nhỏ của tôi. 

Thiên thần bình thản, thiên thần dịu dàng
Hãy thì thầm bên tai anh: tha thứ
Em buồn bã: ánh mắt em thùy mị
Đưa mắt nhìn lên hoặc xuống đi em
Để mỗi khi đi hồi tưởng về em
Sẽ thay cho cõi lòng anh sức mạnh
Niềm tự hào và cả niềm hy vọng
Và cả lòng quả cảm tháng ngày xanh.
1828
_______________
*Bài thơ về Anna Alekseyevna Olenina (1808 – 1888) trước tin đồn Pushkin sẽ bị đi đầy vì trường ca “Gavriylyada” nhại Kinh Phúc Âm.

Предчувствие


Снова тучи надо мною
Собралися в тишине;
Рок завистливый бедою
Угрожает снова мне...
Сохраню ль к судьбе презренье?
Понесу ль навстречу ей
Непреклонность и терпенье
Гордой юности моей?

Бурной жизнью утомленный,
Равнодушно бури жду:
Может быть, еще спасенный,
Снова пристань я найду...
Но, предчувствуя разлуку,
Неизбежный, грозный час,
Сжать твою, мой ангел, руку
Я спешу в последний раз.

Ангел кроткий, безмятежный,
Тихо молви мне: прости,
Опечалься: взор свой нежный
Подыми иль опусти;
И твое воспоминанье
Заменит душе моей
Силу, гордость, упованье
И отвагу юных дней.
1828

  
161.TẶNG GEORGE DAWE

Sao cây bút chì kỳ diệu của anh
Vẽ hình nghiêng của tôi làm gì thế?
Dù anh truyền nó cho bao thế kỷ
Quỉ Mephistopheles sẽ huýt gió lên.

Đường nét của Olenina, anh hãy vẽ.
Giữa oi bức của xúc cảm chân thành
Thiên tài cần phải làm người hâm mộ
Chỉ của sắc đẹp và tuổi thanh xuân.
1828
________________
*George Dawe (1781 – 1829) – họa sĩ Anh, Pushkin và Dawe gặp nhau trên tàu biển trên đường đến thành phố Kronstadt, gần Saint Petersburg.

To Dawe, Esqr

Зачем твой дивный карандаш
Рисует мой арапский профиль?
Хоть ты векам его предашь,
Его освищет Мефистофель.

Рисуй Олениной черты.
В жару сердечных вдохновений
Лишь юности и красоты
Поклонником быть должен гений.
9 мая 1828

  
162.THƠ MỘ CHÍ CHO TRẺ SƠ SINH*

Trong hào quang, trong tĩnh lặng hân hoan
Bên ngai vàng Đấng cao sang muôn thuở
Bé cười nhìn cảnh đọa đày dương thế
Chúc phúc mẹ, cầu nguyện cho cha mình.
1828
_____________
*Bài thơ về đứa bé, con của Sergei Grigorievich Volkonsky (1788 – 1865) và Maria Nikolaevna Volkonskaya (1805 – 1863).  Tướng Sergei Volkonsky là người tham gia cuộc khởi nghĩa tháng Chạp nên bị bắt đi đày ở Siberia, vợ ông gửi đứa con một tuổi cho người thân và tình nguyện đi theo chồng. Một năm sau đứa bé bị chết, một năm sau đó nữa tướng Nikolay Nikolayevich Raevsky (1771 – 1829), ông nội của đứa bé nhờ Pushkin viết bài thơ này để khắc lên mộ.

Эпитафия младенцу

В сиянье, в радостном покое,
У трона вечного творца,
С улыбкой он глядит в изгнание земное,
Благословляет мать и молит за отца.
1828


163.GỬI N. D. KISELYOV

Cứ đi tìm sức khỏe và tự do nơi xứ khác
Nhưng quên phương Bắc là tội lỗi nghe anh
Hãy vội vàng đi uống nước khoáng Carlsbad
Để lại về cùng với chúng tôi uống rượu vang.
1828
________________
*Nikolai Dmitryevich Kiselyov (1802 – 1869) – nhà ngoại giao, bạn của Pushkin.
**Carlsbad (Karlory vary) – thành phố suối khoáng ở Séc.

Н. Д. Киселёву

Ищи в чужом краю здоровья и свободы,
Но север забывать грешно,
Так слушай: поспешай карлсбадские пить воды,
Чтоб с нами снова пить вино.
1828

  
164.BÔNG HOA NHỎ

Bông hoa nhỏ chẳng mùi hương, héo úa
Bị bỏ quên trong sách, tôi đang nhìn
Và thế rồi giữa lòng tôi ngập tràn
Một ước mơ xem chừng rất kỳ lạ.

Vào mùa xuân nào? đâu hoa nở?
Nở có lâu không? Ai đã bẻ hoa
Rồi đặt vào đây để mà làm gì?
Bàn tay quen hay bàn tay xa lạ?

Đ
ể kỷ niệm cho cái lần gặp gỡ
Hay buổi chia ly bất hạnh gì chăng
Hay kỷ niệm lần đi dạo cô đơn
Dưới bóng rừng, trên cánh đồng lặng lẽ?

Giờ còn sống chăng những con người đó?
Thì lúc này họ đang ở nơi nao?
Hay họ cũng đã héo úa phai màu
Như bông hoa không hề quen biết nọ?
1828

Цветок

Цветок засохший, безуханный,
Забытый в книге вижу я;
И вот уже мечтою странной
Душа наполнилась моя:

Где цвел? когда? какой весною?
И долго ль цвел? и сорван кем,
Чужой, знакомой ли рукою?
И положен сюда зачем?

На память нежного ль свиданья,
Или разлуки роковой,
Иль одинокого гулянья
В тиши полей, в тени лесной?

И жив ли тот, и та жива ли?
И нынче где их уголок?
Или уже они увяли,
Как сей неведомый цветок?
1828


165.
CÂY ANCHAR*

Giữa sa mạc khô cằn và vàng úa
Trên mặt đất bị đốt cháy, oi nồng
Anchar như người lính gác dữ dằn
Đ
ứng đó – một mình ở trong hoàn vũ.

Thiên nhiên của đồng hoang khô khát đã
Sinh ra cây trong một bữa tam bành
Nhuốm màu xanh chết cho những lá cành
Và truyền thuốc độc cho từng bộ rễ.

Nhựa độc của cây thấm xuyên qua vỏ
Rồi vì nóng tan chảy vào giữa trưa
Sau đó ngưng kết vào buổi xế chiều
Đ
ặc quánh và trong veo từng lớp nhựa.

Trên cây này chim chóc không bay tới
Hổ cũng chờnchỉ gió xoáy màu đen
Đô
i khi ghé đến cây chết vội vàng
Rồi bay xa, thì đã thành tàn lụi.

Và nếu như đám mây đen bay đến
Rảy nước mưa lên những chiếc lá dày
Sau đó thuốc độc từ những cành cây
Theo nước mưa chảy vào trong cát nóng.

Nhưng một người bằng ánh mắt quyền lực
Đã
phái đến cây thuốc độc một người:
Và kẻ ra đi ngoan ngoãn vâng lời
Đ
ể sáng ra trở về cùng thuốc độc.

Người này mang về nhựa cây cái chết
Và một cành những chiếc lá héo hon
Và mồ hôi trên vầng trán đáng thương
Đã
tuôn chảy thành những dòng lạnh ngắt.

Người mang vềkiệt sức và nằm xuống
Dưới cửa vòm lều nhỏ chốn cung đình
Kẻ nô lệ tội nghiệp chết dưới chân
Vị chúa tể bách chiến là bách thắng.

Rồi công tước dùng thuốc này để tẩm
Lên những mũi tên ngoan ngoãn vâng lời
Cùng với chúng, đem cái chết khắp nơi
Đ
ến láng giềng, tới những miền xa thẳm.
1828
_____
*Cây thuốc độc (chú thích của Pushkin)

Анчар

В пустыне чахлой и скупой,
На почве, зноем раскаленной,
Анчар, как грозный часовой,
Стоит — один во всей вселенной.

Природа жаждущих степей
Его в день гнева породила,
И зелень мертвую ветвей
И корни ядом напоила.

Яд каплет сквозь его кору,
К полудню растопясь от зною,
И застывает ввечеру
Густой прозрачною смолою.

К нему и птица не летит,
И тигр нейдет: лишь вихорь черный
На древо смерти набежит —
И мчится прочь, уже тлетворный.

И если туча оросит,
Блуждая, лист его дремучий,
С его ветвей, уж ядовит,
Стекает дождь в песок горючий.

Но человека человек
Послал к анчару властным взглядом,
И тот послушно в путь потек
И к утру возвратился с ядом.

Принес он смертную смолу
Да ветвь с увядшими листами,
И пот по бледному челу
Струился хладными ручьями;

Принес — и ослабел и лег
Под сводом шалаша на лыки,
И умер бедный раб у ног
Непобедимого владыки.

А царь тем ядом напитал
Свои послушливые стрелы
И с ними гибель разослал
К соседям в чуждые пределы.
<1828>

166.NGƯỜI ĐẸP ƠI EM ĐỪNG HÁT NỮA

Người đẹp ơi em đừng hát nữa
Bài hát buồn của xứ Gruzia
Nghe em hát lòng tôi lại nhớ
Cuộc đời xưa và bến bờ xa.

Những câu hát của em dữ dội
Gợi lòng tôi lại nhớ, thương ôi!
Đê
m thảo nguyên, ánh trăng đồng nội
Người em xưa, hình bóng xa vời...

Cái hình bóng thân thương, khổ ải
Nhìn thấy em tôi ngỡ quên đi
Nhưng em hát - lại hình dung thấy
Trước mắt tôi hình ấy hiện về.

Người đẹp ơi em đừng hát nữa
Bài hát buồn của xứ Gruzia
Nghe em hát lòng tôi lại nhớ
Cuộc đời xưa và bến bờ xa.
1828
_____________________
*Puskin nhớ về Natalia Goncharova khi nghe người đẹp Anna Olenina hát bài dân ca Gruzia.

Не пой, красавица, при мне

Не пой, красавица, при мне
Ты песен Грузии печальной:
Напоминают мне оне
Другую жизнь и берег дальный.

Увы! напоминают мне
Твои жестокие напевы
И степь, и ночь — и при луне
Черты далекой, бедной девы!..

Я призрак милый, роковой,
Тебя увидев, забываю;
Но ты поешь — и предо мной
Его я вновь воображаю.

Не пой, красавица, при мне
Ты песен Грузии печальной:
Напоминают мне оне
Другую жизнь и берег дальный.
1828


167.RÚT TỪ ALBUM A. P. KERN


Nếu như trong đời sống trần gian

Có một linh hồn tuyệt mỹ
Thì em cũng giống nó
Anh có căn cứ để nói với em:
Không thể có!
1828

Из Альбома А. П. Керн


Если в жизни поднебесной

Существует дух прелестный,
То тебе подобен он;
Я скажу тебе резон:
‎Невозможно!

1828




168.TRƯỚC SAO GIỜ VẬY

Tel j'étais autrefois et tel je suis encor*

Bây giờ tôi vẫn thế, như ngày trước
Cẩu thả, đa tình. Các bạn biết không
Nhìn sắc đẹp làm sao không cảm kích
Không âu lo, không hồi hộp âm thầm.
Tình đã bớt trong đời của tôi chăng?
Chim ưng trẻ đã không còn gắng sức
Trong vằng lưới gian dối của nữ thần
Một trăm lần không sửa điều hờn trách
Những thần tượng mới tôi vẫn cầu xin…
1828
_______
*Tel j'étais autrefois et tel je suis encor (trước ra sao, bây giờ tôi vẫn thế) – thơ của Andre Marie de Chenier.


Каков я прежде был, таков и ныне я

Tel j'étais antrefois et tel je suis encor.

Каков я прежде был, таков и ныне я:
Беспечный, влюбчивый. Вы знаете, друзья,
Могу ль на красоту взирать без умиленья,
Без робкой нежности и тайного волненья.
Уж мало ли любовь играла в жизни мной?
Уж мало ль бился я, как ястреб молодой,
В обманчивых сетях, раскинутых Кипридой:
А не исправленный стократною обидой,
Я новым идолам несу мои мольбы...
1828
  

169.NGÀY 26 THÁNG 5 NĂM 1828

Tài năng ngẫu nhiên, tài năng uổng phí
Cuộc đời ơi cho tôi để làm gì?
Hay tại bởi số mệnh đầy huyền bí
Mà cuộc đời đem kết tội cho tôi?

Có ai đấy bằng quyền uy thù nghịch
Đã
gọi tôi từ trong cõi hư vô
Trong hồn tôi dù say mê mãnh liệt
Nhưng đầu tôi hồi hộp mối nghi ngờ.

Trước mắt tôi giờ chẳng còn mục đích
Con tim hoang vu, trí tuệ biếng lười
Nỗi buồn chán đang làm tôi mỏi mệt
Chỉ còn cô đơn tiếng vọng cuộc đời.
1828

Дар напрасный, дар случайный

Дар напрасный, дар случайный,
Жизнь, зачем ты мне дана?
Иль зачем судьбою тайной
Ты на казнь осуждена?

Кто меня враждебной властью
Из ничтожества воззвал,
Душу мне наполнил страстью,
Ум сомненьем взволновал?..

Цели нет передо мною:
Сердце пусто, празден ум,
И томит меня тоскою
Однозвучный жизни шум.
1828

170.ĐÔI MẮT NÀNG*

Nàng dễ thươnggiữa chúng mình nói nhỏ
Là bão giông của những chàng hiệp sĩ
Có thể đem đôi mắt đẹp của nàng
Đặc biệt bằng thơ đem ra so đọ
Đôi mắt Xiếc cát xi** với sao phương nam.
Đôi mắt này nàng biết cách làm chủ
Ánh lửa cháy lên sống động tuyệt vời
Nhưng, hãy thừa nhận, một điều đã rõ
Đôi mắt Olenina yêu dấu của tôi!
Thiên thần trầm tư trong đôi mắt này
Có biết bao khoảng bao la trẻ nhỏ
Có biết bao thể hiện đầy ủy mị
Và bao nhiêu hạnh phúc, bao ước mơ
Cúi xuống như  nụ cười nữ thần Lelya –
Vẻ đẹp khiêm nhường lên ngôi trong đó
Ngước lên là thiên thần của Raffaello
Chỉ thánh thần mới ngắm nhìn như thế.
1828
___________
*Đây là bài thơ mà Puskin đáp trả lại bài thơ “Đôi mắt đen” của Pyotr Vyazemsky (1792 – 1879) nói về đôi mắt của Aleksandra Osipovna Smirnova – Rosset (1809 – 1882). Puskin cũng thừa nhận đôi mắt của Rosset “là bão giông của những chàng hiệp sĩ” và so sánh nó với những ngôi sao phương Nam. Nhưng ở trong đôi mắt của Anna Alekseevna Olenina (1808 – 1888), người tình của Puskin thì có những vẻ đẹp khác và nụ cười sánh ngang với nữ thần Lelya hay thiên thần của Rafaello.
** Xiếc cát xi (Circassians hay Adyghe) – một dân tộc ở vùng Kapkage (Liên Xô cũ); Lelya (Lyalya) – là nữ thần sắc đẹp của người Đông Slavơ; Raffaello Sanzio (1843 – 1520) – họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng người Ý.

Её глаза

Она мила — скажу меж нами —
Придворных витязей гроза,
И можно с южными звёздами
Сравнить, особенно стихами,
Ее черкесские глаза.
Она владеет ими смело,
Они горят огня живей;
Но, сам признайся, то ли дело
Глаза Олениной моей!
Какой задумчивый в них гений,
И сколько детской простоты,
И сколько томных выражений,
И сколько неги и мечты!..
Потупит их с улыбкой Леля —
В них скромных граций торжество;
Поднимет — ангел Рафаэля
Так созерцает божество.
1828


171.BẰNG CON TIM TÔI BAY TÌM NETTY*

Bằng con tim tôi bay tìm Netty
Ở Tver, ở Moskva –
Còn R và O tôi quên bẵng
Vì N và W kia.
1828
______________
*Netty – tức là Anna Nikolaevna Vulf (1799 – 1857). Puskin làm quen với Anna Vulf năm 1825.
**R – là Aleksandra Osipova Smirnova-Rosset (1809 – 1882) – bạn của Puskin; O – là Anna Alekseevna Olenina (1808 – 1888) – người yêu của Puskin; N W tức Netty Vulf (Anna Wulf – tiếng Đức).

За Netty сердцем я летаю

За Netty сердцем я летаю
В Твери, в Москве -
И R и О позабываю
Для N и W.
1828


172.NGÀY 19 THÁNG 10 NĂM 1828

Đã cầu nguyện thành tâm cùng Thượng Đế
Và đã hoan hô hò hét với trường
Tạm biệt nhé, bạn bè, tôi lên đường
Còn các bạn đã đến lúc đi ngủ.
_____________
*Bài thơ viết trong ngày họp nhau kỷ niệm những ngày học ở trường Lyceum. Ngay sau buổi họp mặt này Puskin phải đi đày về Mikhailovsk.

19 октября 1828

Усердно помолившись богу,
Лицею прокричав ура,
Прощайте, братцы: мне в дорогу,
А вам в постель уже пора.


173.
BUỔI SÁNG MÙA ĐÔNG

Băng giá dưới mặt trời
Sao còn ngủ em ơi
Thức dậy đi người đẹp
Em mở mắt tuyệt vời
Thành ngôi sao phương Bắc
Chào bình minh phương Bắc.

Mới chiều qua bão giông
Trời mờ đục sương giăng
Mặt trăng như vết ố
Chiếu xuyên qua mây vàng
Và em ngồi u buồn
Giờhãy nhìn ra cửa:

Dưới bầu trời xanh thắm
Tuyệt vời như trải thảm
Tuyết mênh mông trên đồng
Rừng quang dần đen thẫm
Thông xanh qua lớp sương
Sông dưới băng lấp lánh.

Đ
ầy phòng màu hổ phách
Tiếng củi nổ đì đùng
Bếp lò kêu răng rắc.
Nằm suy nghĩ trong chăn.
Nhưng không biết có nên
Gióng ngựa vào xe trượt.

Lướt trên tuyết tinh sương
Thả hồn theo vó ngựa
Những bước chân vội vã
Đ
ể thăm cánh đồng hoang
Thăm lại những cánh rừng
Và bến bờ yêu quí.
1829

Зимнее утро

Мороз и солнце; день чудесный!
Еще ты дремлешь, друг прелестный —
Пора, красавица, проснись:
Открой сомкнуты негой взоры
Навстречу северной Авроры,
Звездою севера явись!

Вечор, ты помнишь, вьюга злилась,
На мутном небе мгла носилась;
Луна, как бледное пятно,
Сквозь тучи мрачные желтела,
И ты печальная сидела —
А нынче… погляди в окно:

Под голубыми небесами
Великолепными коврами,
Блестя на солнце, снег лежит;
Прозрачный лес один чернеет,
И ель сквозь иней зеленеет,
И речка подо льдом блестит.

Вся комната янтарным блеском
Озарена. Веселым треском
Трещит затопленная печь.
Приятно думать у лежанки.
Но знаешь: не велеть ли в санки
Кобылку бурую запречь?

Скользя по утреннему снегу,
Друг милый, предадимся бегу
Нетерпеливого коня
И навестим поля пустые,
Леса, недавно столь густые,
И берег, милый для меня.
<1829>


174.GỬI FADIN KHAN

Kỳ tích mới của anh thật có phước
Đi về phương bắc giá lạnh của tôi
Nơi mùa xuân chỉ rất ngắn ngủi thôi
Nhưng nơi đó Saadi và Hafiz
Là những cái tên quen với mọi người.

Anh đến thăm nơi này lúc nửa đêm
Hãy để lại điều gì làm dấu vết
Bông hoa của trí tưởng tượng phương Đông
Hãy vung ra trên tuyết miền phương Bắc.
1829
_____________
*Fadin Khan (1873 – 1852) – nhà thơ Ba Tư. Pushkin làm quen với Fadin Khan ở Gruzia khi Pushkin trên đường đi Tiflis còn Fadin Khan đi Saint Petersburg.

Фазиль-хану

Благословен твой подвиг новый,
Твой путь на север наш суровый,
Где кратко царствует весна,
[Но где Гафиза и Саади]
[Знакомы имена].

[Ты посетишь наш край] полночный,
[Оставь же след]
Цветы
фантазии восточной
Рассыпь на северных снегах.
1829


175.LẦN NỮA VINH QUANG

Lần nữa chúng ta giành được vinh quang
Lần nữa kẻ thù kiêu căng thua trận
Tranh chấp đẫm máu ở Erzurum đã định
Ở Edirne đã có được hòa bình.

Nước Nga về phía trước vẫn tiến lên
Oai phong làm dễ cho cả phương Nam
Và một nửa biển Đen người lôi cuốn
Vào vòng tay vốn căng chật của mình.
1829
______________
*Bài thơ về Chiến tranh Nga – Thổ. Erzurum, Edirne (Adrianople) – các thành phổ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Evksina là cách gọi tên biển Đen của người Hy Lạp cổ.

Опять увенчаны мы славой

Опять увенчаны мы славой,
Опять кичливый враг сражен,
Решен в Арзруме спор кровавый,
В Эдырне мир провозглашен.

И дале двинулась Россия,
И юг державно облегла,
И пол-Эвксина вовлекла
В свои объятия тугие.
1829



176.TÔI SẴN SÀNG LÊN ĐƯỜNG*

Tôi sẵn sàng lên đường theo các bạn
Dù đi về đâu tôi vẫn sẵn sàng
Đi chạy trốn thói ngạo mạn, kiêu căng
Đến Vạn lý Trường thành xa thăm thẳm
Đến Paris, hay về nơi cuối tận
Người lái thuyền Tasso** đã chẳng hát lên
Thành phố xưa ngủ yên trong hoang vắng
Nơi rừng trắc bá diệp tỏa mùi hương
Tôi sẵn sàng đi. Nhưng hãy nói giùm:
Niềm đam mê có chết trên đường vắng?
Có quên được kẻ khổ đau, ngạo mạn
Hay lại về phủ phục dưới bàn chân
Dâng tình yêu cho nàng, như vật cống?
1829
____________
*Bài thơ này gắn với một sự kiện trong cuộc đời của Pushkin. Tháng Tư năm 1829 Pushkin cầu hôn với Natalya Nikolaevna Goncharova (1812 – 1863) nhưng nhận được câu trả lời chưa xác định. Pushkin muốn đi thật xa để quên được nàng.
** Torquato Tasso (1544 – 1595) – nhà thơ Ý, tác giả của “Jerusalem giải phóng” (La Gerusalemme liberata, 1580).

Поедем, я готов; куда бы вы, друзья

Поедем, я готов; куда бы вы, друзья,
Куда б ни вздумали, готов за вами я
Повсюду следовать, надменной убегая:
К подножию ль стены далекого Китая,
В кипящий ли Париж, туда ли наконец,
Где Тасса не поет уже ночной гребец,
Где древних городов под пеплом дремлют мощи,
Где кипарисные благоухают рощи,
Повсюду я готов. Поедем... но, друзья,
Скажите: в странствиях умрет ли страсть моя?
Забуду ль гордую, мучительную деву,
Или к ее ногам, ее младому гневу,
Как дань привычную, любовь я принесу?
1829
  

177.
TRÊN ĐỒI GRUZIA

Trên đồi Gruzia lấp lánh sương đêm
Trước mặt anh sông Aragva ầm ĩ
Nghe lâng lâng nỗi buồn nhớ dịu êm
Hình bóng em ngập tràn trong nỗi nhớ.

Một mình em, chỉ riêng một mình em
Chẳng có gì gợi lòng anh buồn thế
Ngọn lửa tình lại rạo rực cháy lên
Bởi không yêu con tim này không thể.
1829

На холмах Грузии лежит ночная мгла

На холмах Грузии лежит ночная мгла;
Шумит Арагва предо мною.
Мне грустно и легко; печаль моя светла;
Печаль моя полна тобою,

Тобой, одной тобой... Унынья моего
Ничто не мучит, не тревожит,
И сердце вновь горит и любит — оттого,
Что не любить оно не может.
_______________
*Bài thơ này đầu tiên có 4 khổ, nội dung cũng đầy đủ hơn. Các nhà nghiên cứu giải thích rằngcó thể Pushkin không muốn in bài thơ này trong thời điểm nhà thơ đang chuẩn bị làm lễ ăn hỏi Natalia Goncharova, mà nội dung bài thơ lại đi nói về một người con gái khác, nên địa danh Kavkaz cũng được đổi thành Gruzia”. Bản đầu tiên như sau:
   
178.TẤT CẢ LẶNG IM

Tất cả lặng imKavkaz trong sương
Những ngôi sao trên đầu anh hiện rõ.
Nghe lâng lângmột nỗi buồn sáng tỏ
Hình bóng em vây lấy nỗi buồn anh.

Chỉ mình em, chỉ riêng một mình em
Chẳng có gì gợi lòng anh buồn thế
Ngọn lửa tình lại rạo rực cháy lên
Bởi không yêu con tim này không thể.

Tháng ngày trôi. Thế mà đã nhiều năm
Giờ ở đâu những bóng hình yêu quí?
Người xa xôi, kẻ trên đời không còn nữa
Chỉ hoài niệm thôi vẫn ở cùng anh.

Giờ anh của em, giờ lại yêu em nữa
Đã không cần hy vọng, chẳng ước mong.
Tình trắng trong như ngọn lửa hiến sinh
Và dịu dàng như giấc mơ thiếu nữ.

Всё тихо — на Кавказ идёт ночная мгла

Всё тихо — на Кавказ идёт ночная мгла,
Восходят звёзды надо мною.
Мне грустно и легко
 — печаль моя светла,
Печаль моя полна тобою.

Тобой, одной тобой
 — унынья моего
Ничто не мучит, не тревожит,
И сердце вновь горит и любит оттого,
Что не любить оно не может.

Прошли за днями дни. Сокрылось много лет.
Где вы, безценные созданья?
Иные далеко́, иных уж в мире нет,
Со мной одни воспоминанья.

Я твой по-прежнему, тебя люблю я вновь
И без надежд и без желаний.
Как пламень жертвенный чиста моя любовь
И нежность девственных мечтаний.
1829
_________________
* Bài thơ này được viết trong chuyến đi về vùng Kapkage. Puskin đã nhớ lại chuyến đi trước vào năm 1820 cùng với gia đình vị tướng Raevsky. Nhà Raevsky có ba cô con gái xinh đẹp: Êkaterina 22 tuổi, Êlêna 16 tuổi và Maria 14 tuổi. Theo như những gì còn được ghi lại thì Puskin đã yêu ngay cả ba cô cùng một lúc nhưng với Maria có phần nặng tình hơn. Sau này Maria đã hồi tưởng lại: “Là thi sĩ, anh ấy cho mình có nghĩa vụ phải yêu hết tất cả các cô gái trẻ và những phụ nữ xinh đẹp mà mình đã gặp”.
  

179.TÔI ĐÃ YÊU EM

Tôi đã yêu emvà có lẽ tình
Trong lòng tôi vẫn còn chưa chết hẳn
Nhưng hãy để tình yên, tôi không muốn
Một điều gì gợi lại nỗi đau em.

Tôi đã yêu em vô vọng, âm thầm
Khi rụt rè, khi lòng ghen hậm hực
Tôi đã yêu em chân thành, tha thiết 

Cầu cho em được bao người như thế nữa yêu em.
1829

Я вас любил: любовь ещё, быть может

Я вас любил: любовь еще, быть может,
В душе моей угасла не совсем;
Но пусть она вас больше не тревожит;
Я не хочу печалить вас ничем.

Я вас любил безмолвно, безнадежно,
То робостью, то ревностью томим;
Я вас любил так искренно, так нежно,
Как дай вам бог любимой быть другим.
1829


180.GỬI E. P. POLTORATSKAYA

Ngày Chúa còn tha tội cho chúng ta
Ngày mà anh hãy còn chưa treo cổ
Thì sẽ phủ phục dưới chân em đó
Dưới những quả anh đào Ukraina.
1829
_______________
*Ekaterina Pavlovna Poltoratskaya (họ khi chưa lấy chồng là Bakunina, 1795-1869) – tình yêu đầu của Pushkin, nguồn cảm hứng cho Pushkin viết hơn 20 bài thơ tình nổi tiếng.

Е. П. Полторацкой

Когда помилует нас бог,
Когда не буду я повешен,
То буду я у ваших ног,
В тени украинских черешен.
1829


181.SÔNG ĐÔNG

Lấp lánh giữa những cánh đồng rộng lớn
Kìa dòng chảyTa xin chào sông Đông!
Từ những đứa con của Người xa thẳm
Ta mang về lời cảm tạ với sông.

Như người anh nổi tiếngmọi dòng sông
Thảy đều biết đến sông Đông êm đềm
Từ sông Aras, sông Euphrates
Ta mang về lời cảm tạ với sông.

Khi về nghỉ ngơi sau cuộc đua tranh
Cảm nhận ra hơi mát của quê mình
Những chú ngựa miền sống Đông uống nước
Chảy về từ sông Akhurian*

Sông Đông mến thương xin hãy sẵn sàng
Đ
ể dành cho những kỵ sĩ hiên ngang
Thứ nước ép sủi tăm và sóng sánh
Đư
ợc cất từ những vườn nho bên sông.
1829
____________
*
Akhurian (tên gọi sông Арпачай bằng các ngôn ngữ Latin) – là một nhánh đổ vào sông Aras, trong thế kỷ 19 là đường biên giới giữa Đế chế Nga và Thổ Nhĩ Kỳ.

Дон

Блеща средь полей широких,
Вон он льется!.. Здравствуй, Дон!
От сынов твоих далеких
Я привез тебе поклон.

Как прославленного брата,
Реки знают тихий Дон:
От Аракса и Эвфрата
Я привез тебе поклон.

Отдохнув от злой погони,
Чуя родину свою,
Пьют уже донские кони
Арпачайскую струю.

Приготовь же, Дон заветный,
Для наездников лихих
Сок кипучий, искрометный
Виноградников твоих.
1829


182.ĐẾN GA IZHORY

Ga Izhory, khi đến
Anh nhìn lên trời xanh
Nhớ lại ánh mắt nhìn
Đôi mắt em xanh thắm.

Dù lòng anh đắm đuối
Trước vẻ đẹp trắng trong
Dù người ta vẫn gọi
Anh là ma cà rồng.

Nhưng quì gối trước em
Lúc đó anh không dám
Không muốn em phiền muộn
Vì nài nỉ xin tình.

Đành nén lòng tận hưởng
Cảnh bận rộn lăng xăng
Có lẽ, anh sẽ quên
Những nét đầy thương mến.

Dáng đi thật nhẹ nhàng
Chuyện trò rất cẩn trọng
Vẻ lặng yên khiêm tốn
Ánh mắt, nụ cười ranh.

Nếu khôngtheo dấu trước
Miền quê em thân thương
Sẽ ghé sau một năm
Yêu đến tháng mười một.
1829
________________
*Bài thơ này về Ekaterina Vasilyevna Velyasheva (1813-1865), là em gái của Aleksei Nikolayevich Vulf (1805-1881), bạn của Puskin.
*Izhory – ga tàu lửa gần Petersburg.

Подъезжая под Ижоры

Подъезжая под Ижоры,
Я взглянул на небеса
И воспомнил ваши взоры,
Ваши синие глаза.

Хоть я грустно очарован
Вашей девственной красой,
Хоть вампиром именован
Я в губернии Тверской,

Но колен моих пред вами
Преклонить я не посмел
И влюбленными мольбами
Вас тревожить не хотел.

Упиваясь неприятно
Хмелем светской суеты,
Позабуду, вероятно,
Ваши милые черты,

Легкий стан, движений стройность,
Осторожный разговор,
Эту скромную спокойность,
Хитрый смех и хитрый взор.

Если ж нет... по прежню следу
В ваши мирные края
Через год опять заеду
И влюблюсь до ноября.
1829


183.HY LẠP HÃY ĐỨNG LÊN

Hỡi đất nước Hy Lạp, hãy đứng lên
Chẳng vô tình trỗi dậy nguồn sức mạnh
Chẳng vô tình nổi lên lời chửi mắng
Olympus, Pindus, Thermopylae.

Dưới bóng của những đỉnh núi ngàn năm
Niềm tự do tươi trẻ đà trỗi dậy
Trên ngôi mộ của Pericles
Trên đá hoa cẩm thạch của Athens.

Xứ sở thần thánh, xứ sở anh hùng
Đã phá tan những xiềng gông nô lệ
Trong lời hát những câu thơ bốc lửa
Của Tyrtaes, Rigas và Bai-rơn.
1829
_____________
*Olympus – ngọn núi, Pindus – dãy núi, Thermopylae – hẻm núi ở Hy Lạp.
*Pericles (494-429 tr. CN) – vị tướng Hy Lạp, một trong những người khởi xướng nền “dân chủ Athens”.
*Tyrtaes (thế kỷ VII tr. CN) và Rigas (1757-1798) là những nhà thơ Hy Lạp. Bai-rơn (Byron, 1788-1824) – nhà thơ Anh, người Hy Lạp coi Byron là anh hùng dân tộc của Hy Lạp.

Восстань, о Греция, восстань

Восстань, о Греция, восстань.
Недаром напрягала силы,
Недаром потрясала брань
Олимп и Пинд и Фермопилы.

Под сенью ветхой их вершин
Свобода юная возникла,
На гробах
Перикла,
На
мраморных Афин.

Страна героев и богов
Расторгла рабские вериги
При пеньи пламенных стихов
Тиртея, Байрона и Риги.
1829


184.XƯA CÓ CHÀNG HIỆP SĨ


Xưa có chàng hiệp sĩ

Nghèo, lặng lẽ, giản đơn
Vẻ tái nhợt, tối tăm
Lòng can đảm, thẳng thắn.

Chàng có một cái nhìn

Đầu óc không hiểu được
Và ấn tượng sâu sắc
Khắc ghi trong tim chàng.

Chàng đến Giơ-ne-va

Thấy bên cây Thánh giá
Đức mẹ Maria
Thân sinh của Đức Chúa.

Kể từ đó lòng chàng

Không còn nhìn phụ nữ
Cho đến ngày xuống mộ
Chàng không nói không rằng.

Kể từ đó, lưới sắt

Không rời khỏi gương mặt
Và thay cho chiếc khăn
Quấn lên cổ tràng hạt.

Chưa Chúa Cha, Chúa Con

Chúa Thánh Linh cầu nguyện
Chàng chưa hề một lần
Chàng là người lạ lẫm.

Rồi cứ thế hằng đêm

Trước gương mặt thánh thần
Hướng mắt về Đức Mẹ
Nước mắt rơi lặng thầm.

Đầy tình yêu, đức tin

Với ước mơ sùng đạo
Kinh Kính Mừng* bằng máu
Chàng khắc trên tấm khiên.

Như bao chàng hiệp sĩ

Làm kẻ thù run sợ
Trên đồng Palestin
Chàng hướng về Đức Mẹ.

Lời “Hoa hồng thánh thần!”**

Kêu to hơn tất cả
Xua người Islam
Đến từ khắp mọi phía.

Về lâu đài xa xăm

Chàng sống trong khắc khổ
Yêu thương và đau buồn
Chàng chết trong lặng lẽ.

Khi chàng vừa lìa trần

Quỉ láu lỉnh tinh ranh
Mang hồn chàng hiệp sĩ
Về xứ sở của mình:

Chàng chưa từng cầu Chúa

Chàng chưa từng ăn chay
Chàng đi đó đi đây
Tìm Đức Mẹ của Chúa.

Đem mọi chuyện tính sổ

Đức Mẹ bênh vực chàng
Và cho chàng hiệp sĩ
Được lên Nước Thiên đàng.
1829
____________
*Ave, Mater Dei – những lời trong bản kinh cầu nguyện Đức Mẹ Maria (Kinh Kính Mừng).
** Lumen coeli, sancta rosa! – Ánh sáng trời, Hoa hồng thần thánh.

Жил на свете рыцарь бедный

Жил на свете рыцарь бедный,
Молчаливый и простой,
С виду сумрачный и бледный,
Духом смелый и прямой.

Он имел одно виденье,
Непостижное уму,
И глубоко впечатленье
В сердце врезалось ему.

Путешествуя в Женеву,
На дороге у креста
Видел он Марию Деву,
Матерь Господа Христа.

С той поры, сгорев душою,
Он на женщин не смотрел,
И до гроба ни с одною
Молвить слова не хотел.

С той поры стальной решётки
Он с лица не подымал
И себе на шею чётки
Вместо шарфа привязал.

Несть мольбы Отцу, ни Сыну,
Ни Святому Духу ввек
Не случилось паладину,
Странный был он человек.

Проводил он целы ночи
Перед ликом Пресвятой,
Устремив к Ней скорбны очи,
Тихо слёзы лья рекой.

Полон верой и любовью,
Верен набожной мечте,
Ave, Mater Dei кровью
Написал он на щите.

Между тем как паладины
Ввстречу трепетным врагам
По равнинам Палестины
Мчались, именуя дам,

Lumen coelum, sancta Rosa!
Восклицал всех громче он,
И гнала его угроза
Мусульман со всех сторон.

Возвратясь в свой замок дальный,
Жил он строго заключён,
Всё влюбленный, всё печальный,
Без причастья умер он;

Между тем как он кончался,
Дух лукавый подоспел,
Душу рыцаря сбирался
Бес тащить уж в свой предел:

Он-де Богу не молился,
Он не ведал-де поста,
Не путём-де волочился
Он за Матушкой Христа.

Но Пречистая сердечно
Заступилась за него
И впустила в царство вечно
Паладина Своего.
1829

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét