Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Puskin. Còn lại gì cho em - Phần 9 (1833 - 1836)



185.BUỒN BÃ VÀ ĐÁNG SỢ

Buồn bã và đáng sợ.
Ta sẽ ở lại đây
Con đường và nơi ngủ.
Chật chội và ngạt hơi.
Trong hẻm núi hoang dã
Chỉ có tuyết và mây.

Khó nhìn thấy bầu trời
Giống như từ trong ngục
Cơn gió đang gào thét
Thấy xúc phạm mặt trời
1829
______________
*Puskin tả Hẻm núi Darial (Дарьяльское ущелье) ở biên giới Nga và Gruzia.

Страшно и скучно

Страшно и скучно.
Здесь новоселье,
Путь и ночлег.
Тесно и душно.
В диком ущелье —
Тучи да снег.

Небо чуть видно,
Как из тюрьмы.
Ветер шумит.
Солнцу обидно...
1829


186.GIÃ BIỆT

Hình bóng của em trong lần cuối cùng
Anh đánh liều đ đi hồi tưởng lại
Gợi ước mơ của sức mạnh chân thành
Và với niềm vui rụt rè, tê tái
Anh đi nhớ về tình cảm của em.

Năm tháng của ta vội vã qua nhanh
Đổi thay chúng mình, đổi thay tất cả
Em bây giờ cho nhà thơ của mình
Đem khoác lên bóng đêm nơi ngôi mộ
Và với em, người bạn đã không còn.

Thì người bạn gái ở nơi xa vắng
Hãy nhận lời giã biệt của lòng anh
Em hãy xem như người vợ góa chồng
Như người bạn lặng lẽ ôm người bạn
Trước khi người đó bị giam cầm.
1830

Прощание

В последний раз твой образ милый
Дерзаю мысленно ласкать,
Будить мечту сердечной силой
И с негой робкой и унылой
Твою любовь воспоминать.

Бегут, меняясь, наши лета,
Меняя всё, меняя нас,
Уж ты для своего поэта
Могильным сумраком одета,
И для тебя твой друг угас.

Прими же, дальная подруга,
Прощанье сердца моего,
Как овдовевшая супруга,
Как друг, обнявший молча друга
Пред заточением его.
Осень 1830


187.
CÒN LẠI GÌ CHO EM

Còn lại gì cho em trong tên gọi
Sẽ chết đi như tiếng dội buồn thương
Của ngọn sóng vỗ bờ xa mòn mỏi
Như rừng sâu tiếng vọng giữa đêm trường.

Cái tên gọi trong những dòng lưu bút
Đ
ể lại cho em dấu chết, tựa như
Lời ai điếu giữa những viền hoạ tiết
Mà lời văn nghe u ẩn, mịt mù.

Cái tên gọi đã từ lâu quên lãng
Trong những cơn xúc động mới cuồng điên
Chẳng hề gợi trong hồn em một thoáng
Hoài niệm xưa bao tha thiết êm đềm.

Nhưng nếu gặp ngày âm thầm đau đớn
Phút u buồn xin em hãy gọi tên
Và hãy nói: vẫn còn đây kỷ niệm
Em vẫn còn sống giữa một trái tim.
1830
______________
*Người vẫn còn sống trong trái tim thi sĩ này là Carolina Sobanskaya. Thời hai người yêu nhau ở thành phố biển Odessa Puskin đã ghi những dòng kỷ niệm và ký tên mình trong cuốn sổ lưu niệm theo yêu cầu của nàng.

Что в имени тебе моём

Что в имени тебе моем?
Оно умрет, как шум печальный
Волны, плеснувшей в берег дальний,
Как звук ночной в лесу глухом.

Оно на памятном листке
Оставит мертвый след, подобный
Узору надписи надгробной
На непонятном языке.

Что в нем? Забытое давно
В волненьях новых и мятежных,
Твоей душе не даст оно
Воспоминаний чистых, нежных.

Но в день печали, в тишине,
Произнеси его тоскуя;
Скажи: есть память обо мне,
Есть в мире сердце, где живу я.
1830


188.NỤ HÔN NGÀY GẶP LẠI

Về lại quê hương bờ xa vẫy gọi*
Em giã từ miền đất lạ xa xôi
Trong giờ phút buồn đau nhớ mãi
Trước mặt em anh đã khóc ngậm ngùi.

Đô
i bàn tay anh trong cơn giá rét
Cố giữ lấy em, anh sợ qúa chừng
Nghe rời rã vì chia ly khủng khiếp
Anh đã van xin nức nở không ngừng.

Nhưng đôi môi em quay đi chẳng nhận
Phút chia ly trên bến nụ hôn buồn
Từ xứ sở của ngày xa u ám
Em trở về vùng đất mới gọi anh.

Em đã nói: “Rồi trong ngày gặp lại
Dưới bầu trời muôn thưở màu xanh
Dưới bóng ô-liu nụ hôn ân ái
Mình lại bên nhau như cội liền cành”.

Nhưng than ôi, nơi bầu trời hẹn ước
Đã á
nh lên vầng sáng giữa không trung
Nơi bóng ô-liu nằm trên đáy nước
Em ngủ say trong giấc mộng cuối cùng.

Cả sắc đẹp và nỗi đau tê tái
Đ
ều thành tro trong bình đựng thi hài
Cùng biến luôn nụ hôn ngày gặp lại
Nhưng nơi này anh vẫn đợi chờ ai...
1830
__________________
*Puskin đau đớn nhớ lại ngày chia tay với người tình Amalia Riznich trên thành phố cảng Odessa. Amalia Riznich là một thiếu phụ xinh đẹp và quyến rũ mang trong mình hai dòng máu Đức và Ý. Mặc dù có chồng là một thương gia giàu có nhưng vây quanh nàng có nhiều bậc hiền nhân, quân tử trong đó có Puskin. Cuối cùng, trái tim người đẹp đã dành cho thi sĩ nhưng ngày vui của họ chẳng được lâu. Khi chồng của Amalia biết chuyện đã cho nàng trở về Ý. Phút chia tay hai người cùng hẹn ngày gặp lại trên đất Ý nhưng khi về Ý Amalia đã chết vì bệnh lao phổi.

Для берегов отчизны дальной

Для берегов отчизны дальной
Ты покидала край чужой;
В час незабвенный, в час печальный
Я долго плакал пред тобой.

Мои хладеющие руки
Тебя старались удержать;
Томленье страшное разлуки
Мой стон молил не прерывать.

Но ты от горького лобзанья
Свои уста оторвала;
Из края мрачного изгнанья
Ты в край иной меня звала.

Ты говорила: «В день свиданья
Под небом вечно голубым,
В тени олив, любви лобзанья
Мы вновь, мой друг, соединим».

Но там, увы, где неба своды
Сияют в блеске голубом,
Где [тень олив легла] на воды,
Заснула ты последним сном.

Твоя краса, твои страданья
Исчезли в урне гробовой —
А с <ними> поцалуй свиданья…
Но жду его; он за тобой…
<1830>


189.THỊ ĐỒNG HAY TUỔI MƯỜI LĂM

C'est l'age de Cherubin...


Tuổi mười lăm của tôi sắp kết thúc

Liệu tôi có chờ đến những ngày vui?
Để thúc đẩy tôi đi về phía trước!
Nhưng dù sao lúc này bao ánh mắt
Nhìn sang tôi không khinh khỉnh nữa rồi.

Không là cậu bé nữa – trên bờ môi

Tôi đà có thể vân vê ria mép
Quan trọng như cụ già răng rụng hết
Các vị có nghe giọng nói cục cằn
Ai cứ thử xô tôi cái mà xem.

Phụ nữ thích tôi vì tôi khiêm tốn

Và trong số họ vẫn có một nàng
Vẻ mệt mỏi trong ánh nhìn kiêu hãnh
Và màu sắc trên đôi má tối tăm
Làm cho tôi quí nàng hơn cuộc sống.

Nàng thích uy quyền và rất nghiêm khắc

Tôi ngạc nhiên trước trí tuệ của nàng
Và nàng ghen tuông vô cùng khủng khiếp
Nhưng đổi lại, với thiên hạ kiêu căng
Chỉ dành cho một mình tôi được phép.

Chiều hôm qua nàng trang trọng đàng hoàng

Thề với tôi rằng nàng không cho phép
Nếu mắt tôi còn nhìn dọc nhìn ngang
Thì sẽ cho tôi uống vào thuộc độc
Liệu còn tình yêu nào mãnh liệt hơn!

Nàng sẵn sàng, dù đi vào sa mạc

Chạy theo tôi, khinh bỉ mọi tin đồn.
Các vị muốn biết tên của nàng không
Người Sevilla, tiểu thư bá tước
Không bao giờ tôi đi gọi tên em!
1830
_____________
*C'est l'age de Cherubin... – Đấy là thời của tuổi thần tiên (tiếng Pháp).

Паж, или Пятнадцатый год


C'est l'âge de Chérubin…


Пятнадцать лет мне скоро минет;

Дождусь ли радостного дня?
Как он вперед меня подвинет!
Но и теперь никто не кинет
С презреньем взгляда на меня.

Уж я не мальчик — уж над губой

Могу свой ус я защипнуть;
Я важен, как старик беззубый;
Вы слышите мой голос грубый,
Попробуй кто меня толкнуть.

Я нравлюсь дамам, ибо скромен,

И между ими есть одна…
И гордый взор её так томен,
И цвет ланит её так тёмен,
Что жизни мне милей она.

Она строга, властолюбива,

Я сам дивлюсь её уму —
И ужас как она ревнива;
Зато со всеми горделива
И мне доступна одному.

Вечор она мне величаво

Клялась, что если буду вновь
Глядеть налево и направо,
То даст она мне яду; право —
Вот какова ее любовь!

Она готова хоть в пустыню

Бежать со мной, презрев молву.
Хотите знать мою богиню,
Мою севильскую графиню?..
Нет! ни за что не назову!
1830


190.HAI TÌNH CẢM


Hai tình cảm thân thiết đến lạ lùng

Thứ đồ ăn nuôi tâm hồn ta đó –
Là tình yêu với quê hương xứ sở
Là tình yêu với mồ mả cha ông.

Miền thánh địa thiêng liêng đầy sức sống!

Mặt đất này thiếu chúng sẽ lụi tàn
Và thế giới như một cánh đồng hoang
Giống như bàn thờ mà không có thánh.
1830

Два чувства дивно близки нам

Два чувства дивно близки нам,

В них обретает сердце пищу:
Любовь к родному пепелищу,
Любовь к отеческим гробам.

Животворящая святыня!

Земля была б без них мертва,
Как . . . . . . . . пустыня.
И как алтарь без божества».
1830


191.NHỮNG NGƯỜI DIGAN

Trong những giờ tĩnh lặng bên bìa rừng

Buổi chiều tối tiếng ồn ào trổi dậy
Những tiếng hát lời ca bên lều trại
Và bập bùng những ánh lửa đốt lên.

Ta chào bộ lạc hạnh phúc vô cùng

Ta nhận ra các người qua lửa trại
Và có lẽ một thời gian nào đấy
Ta vẫn đi theo lều trại thân thương.

Sáng mai cùng những tia nắng đầu tiên

Vết tự do của các người biến mất
Các người đi – nhưng sẽ không theo bước
Nhà thơ của người không tiếp bước chân.

Chàng đành quên những đêm ngủ lang thang

Và những trò tinh nghịch rất xưa cổ
Vì hạnh phúc của mình nơi thôn dã
Và sự lặng yên mái ấm gia đình.
1830

Цыганы


Над лесистыми брегами,

В час вечерней тишины,
Шум и песни под шатрами,
И огни разложены.

Здравствуй, счастливое племя!

Узнаю твои костры;
Я бы сам в иное время
Провождал сии шатры.

Завтра с первыми лучами

Ваш исчезнет вольный след,
Вы уйдёте — но за вами
Не пойдет уж ваш поэт.

Он бродящие ночлеги

И проказы старины
Позабыл для сельской неги
И домашней тишины.
1830



192.CYCLOP

Trí tuệ và lời mất cùng một lúc
Anh nhìn em bằng con mắt duy nhất:
Con mắt duy nhất mọc trên đầu anh.

Giá mà hai số phận đều khao khát
Giá mà anh có một trăm con mắt
Thì cả trăm con mắt đều nhìn em.
1830
___________
*
Cyclopngười khổng lồ một mắt trong thần thoại Hy Lạp.
  
Циклоп

Язык и ум теряя разом,
Гляжу на вас единым глазом:
Единый глаз в главе моей.
Когда б Судьбы того хотели,
Когда б имел я сто очей,
То все бы сто на вас глядели.
1830


193.THƠ SONNET

Scorn not the sonnet, critic.
Wordsworth*


Dante nghiêm khắc không khinh thơ sonnet
Petrarca từng đốt ngọn lửa tình
Yêu thơ này – tác giả của Macbeth**
Và Camões*** thể hiện nỗi niềm thương.

Sonnet thời nay vẫn mê hoặc nhà thơ
Wordsworth đã chọn làm vũ khí
Khi ánh sáng đời thường ở cách xa
Ông đem lý tưởng thiên nhiên ra vẽ.

Dưới bóng núi Taurida xa xăm
Nhà thơ Litva**** bằng thể thơ gò bó
Phút chốc viết ra mơ ước của mình.

Những thiếu nữ ở ta chưa biết rằng
Delvid vì thơ này mà không nhớ
Giai điệu thiêng của thơ hexametron.
1830
________________
*Nhà phê bình chớ coi thường thơ sonnet. Wordsworth.Puskin phỏng dịch bài Scorn not the Sonnet; Critic, you have frowned… của Wordsworth.
**Wiliam Shakespeare, ***Louís de Camões, ****Adam Mickiewicz.

Сонет

Scorn not the sonnet, critic.

Суровый Дант не презирал сонета;
В нем жар любви Петрарка изливал;
Игру его любил творец Макбета;
Им скорбну мысль Камоэнс облекал.

И в наши дни пленяет он поэта:
Вордсворт его орудием избрал,
Когда вдали от суетного света
Природы он рисует идеал.

Под сенью гор Тавриды отдаленной
Певец Литвы в размер его стесненный
Свои мечты мгновенно заключал.

У нас еще его не знали девы,
Как для него уж Дельвиг забывал
Гекзаметра священные напевы.
<1830>


194.TRƯỚC CÔ GÁI TÂY BAN NHA

Hai tráng sĩ đứng trước
Cô gái Tây Ban Nha
Họ can đảm, tự do
Họ nhìn vào đôi mắt.

Cả hai ngời vẻ đẹp
Hai con tim cháy bừng
Tay họ đặt lên gươm –
Những bàn tay chắc nịch.

Quí nàng hơn cuộc sống
Yêu nàng như vinh quang
Nhưng nàng yêu một chàng
Ai là người được chọn?

“Em yêu ai, hãy chọn?”
Cả hai đều nói lời
Họ nhìn cô không thôi
Với một niềm hy vọng.
1830

Пред испанкой благородной

Пред испанкой благородной
Двое рыцарей стоят.
Оба смело и свободно
В очи прямо ей глядят.

Блещут оба красотою,
Оба сердцем горячи,
Оба мощною рукою
Оперлися на мечи.

Жизни им она дороже
И, как слава, им мила;
Но один ей мил — кого же
Дева сердцем избрала?

«Кто, реши, любим тобою?» —
Оба деве говорят
И с надеждой молодою
В очи прямо ей глядят.
1830
  

195.SẦU CA

Niềm vui đã tắt của tháng ngày điên
Tôi khó chịu như cào ruột cào gan
Những đau khổ của ngày qua như rượu
Càng để lâu càng mạnh mẽ trong hồn
Đư
ờng tôi u ám. Và còn đau khổ
Và biển còn nổi sóng trong ngày mai.

Nhưng mà tôi chưa muốn chết bạn ơi
Tôi muốn sống để khổ đau suy nghĩ
Và tôi biết sẽ còn bao lạc thú
Giữa những khổ đau, xao xuyến, âu lo
Giờ tôi lại đang có sự hài hòa
Lên những điều tưởng tượng tuôn dòng lệ
Và có thể - buổi hoàng hôn buồn bã
Tình nở nụ cười vĩnh biệt cùng tôi.
1830

Элегия

Безумных лет угасшее веселье
Мне тяжело, как смутное похмелье.
Но, как вино
 — печаль минувших дней
В моей душе чем старе, тем сильней.
Мой путь уныл. Сулит мне труд и горе
Грядущего волнуемое море.

Но не хочу, о други, умирать;
Я жить хочу, чтоб мыслить и страдать;
И ведаю, мне будут наслажденья
Меж горестей, забот и треволненья:
Порой опять гармонией упьюсь,
Над вымыслом слезами обольюсь,
И может быть
 — на мой закат печальный
Блеснет любовь улыбкою прощальной.
<1830>


196.GỬI NỮ CÔNG TƯỚC S. A. URUSOVA

Anh chưa tin bức tranh ba ngôi thánh
Ngỡ Chúa ba ngôi tất cả anh minh
Nhưng nhìn thấy em là anh tin tưởng
Cầu ba phẩm chất trong một nữ thần.
1826-1830
___________
*
Bức tranh ba ngôi thánh (Holy Trinity Icon) – là một tác phẩm nổi tiếng của họa sĩ Andrei Rublev (thế kỷ XV). Ba phẩm chất: xinh đẹp, duyên dáng, yêu kiều. Bài thơ này là bản dịch Voltaire: Oui, j'en conviens, chez moi la trinité / Jusqu'à présent n'avait du tout fortune; / Mais j'apergois les trois grâces en une: / Vous confondez mon incrédulité. (Vâng, tôi hiểu rằng ba ngôi của tôi chưa có sự thành công, nhưng tôi nhìn thấy ba phẩm chất trong một, và em đã làm cho lung lay sự thiếu tin tưởng của tôi). Pushkin làm quen với nữ công tước, người đẹp Sofia Aleksandrovna Urusova (1804 – 1889) vào năm 1826.

Кж. С. А. Урусовой

Не веровал я троице доныне:
Мне бог тройной казался всё мудрен;
Но вижу вас и, верой одарен,
Молюсь трем грациям в одной богине.
1826–1830


197.ĐỨC MẸ ĐỒNG TRINH

Không nhiều bức tranh cổ mà tôi thích
Đem trang điểm cho nơi ở của mình
Để khách ngạc nhiên một cách dị đoan
Nghe lời bình của những người hiểu biết.

Trong góc phòng, giữa vô vàn sách vở
Một bức tranh tôi muốn ngắm muôn đời
Nhìn tôi từ tranh vẽ, như từ mây
Mẹ Đồng Trinh và Hài Đồng Cứu Thế.

Mẹcao cả, Chúatrí tuệ ngời trong mắt
Cùng nhìn dịu dàng trong ánh hào quang
Không thiên thần, dưới bóng cọ Xin.

Mong ước của anh đã thành hiện thực
Đấng Sáng tạo gửi em xuống cho anh
Mẹ Đồng Trinh của anh tinh khiết nhất.
1830
______________________
*Bài thơ về bức tranh “Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồngcủa họa sĩ Ý Pietro Perugino (1446 – 1523). Pushkin đã kinh ngạc trước vẻ đẹp của Đức Mẹ trong bức tranh sao lại quá giống với vợ sắp cưới của mình là Natalia Nikolayevna Pushkina (Goncharova).

Мадонна

Не множеством картин старинных мастеров
Украсить я всегда желал свою обитель,
Чтоб суеверно им дивился посетитель,
Внимая важному сужденью знатоков.

В простом углу моём, средь медленных трудов,
Одной картины я желал быть вечно зритель,
Одной: чтоб на меня с холста, как с облаков,
Пречистая и наш Божественный Спаситель —

Она с величием, Он с разумом в очах —
Взирали, кроткие, во славе и в лучах,
Одни, без ангелов, под пальмою Сиона.

Исполнились мои желания. Творец
Тебя мне ниспослал, тебя, моя Мадона,
Чистейшей прелести чистейший образец.
1830


198.NIỆM CHÚ

Ôi, nếu như quả thực rằng trong đêm
Khi những sinh linh sống đang yên nghỉ
Thì từ giữa bầu trời ánh trăng thanh
Chiếu lên những phiến đá trên mộ chí
Ôi, nếu như quả thực rằng khi đó
Những nấm mồ lặng lẽ sẽ trống không
Tôi đợi Layla, tôi gọi với bóng rằng:
Hãy đến đây với anh, em đến nhé!

Hãy hiện ra, ôi chiếc bóng yêu thương.
Em đã ra sao trước giờ ly biệt
Như ngày mùa đông, lạnh lùng, tái nhợt
Biến dạng trong nỗi đau khổ cuối cùng.
Em hãy đến, như ngôi sao xa xăm
Như tiếng động nhẹ nhàng, như cơn gió
Hoặc như bóng ma khủng khiếp kinh hoàng
Sao cũng được: hãy đến đây em nhé!

Anh gọi tên em là không phải đ
Quở trách những ai trong cơn giận dữ
Đã giết chết người yêu dấu của anh
Hoặc để biết bí mật chốn vĩnh hằng
Cũng không phải vì đôi khi hành hạ
Bởi một mối nghi ngờ… nhưng buồn quá
Anh muốn nói rằng anh vẫn yêu em
Anh vẫn là của em: em đến nhé!
1830
______________
*Có ý kiến cho rằng bài thơ này về Amalia Riznich, nhân vật trong bài thơ “Nụ hôn ngày gặp lại” nhưng có những ý kiến khác thì cho rằng bài thơ này về Calipso Polykhrony, một cô gái Hy Lạp mà Pushkin làm quen ở Kishinyov, Pushkin thường gọi nàng bằng cái tên Layla. Calipso Polykhrony chết năm 1827.

Заклинание

О, если правда, что в ночи,
Когда покоятся живые,
И с неба лунные лучи
Скользят на камни гробовые,
О, если правда, что тогда
Пустеют тихие могилы, —
Я тень зову, я жду Леилы:
Ко мне, мой друг, сюда, сюда!

Явись, возлюбленная тень,
Как ты была перед разлукой,
Бледна, хладна, как зимний день,
Искажена последней мукой.
Приди, как дальная звезда,
Как лёгкой звук иль дуновенье,
Иль как ужасное виденье,
Мне всё равно, сюда! сюда!..

Зову тебя не для того,
Чтоб укорять людей, чья злоба
Убила друга моего,
Иль чтоб изведать тайны гроба,
Не для того, что иногда
Сомненьем мучусь… но, тоскуя,
Хочу сказать, что всё люблю я,
Что всё я твой: сюда, сюда!
1830


199.ANH Ở ĐÂY, INESILLA

Anh ở đây, Inesilla
Đứng đây, ngoài cửa sổ
Thành phố Sevilla
Đang chìm trong giấc ngủ.

Lòng can đảm dâng đầy
Trong áo choàng vây kín
Với ghi ta và kiếm
Anh đứng ở nơi này.

Em ngủ ư? Anh đàn
Để đánh thức em đấy.
Nếu ông già thức dậy
Kiếm bắt ông đi nằm.

Hãy lấy dây lụa mềm
Buộc chặt vào cửa sổ…
Sao mà em chậm thế?
Hay có ai trong phòng?..

Anh đây, Inesilla
Đứng đây, ngoài cửa sổ
Thành phố Sevilla
Đang chìm trong giấc ngủ.
1830
____________
*Đây là bài thơ Puskin mô phỏng bài Serenade (Inesilla! I am here...) của nhà thơ Anh Bryan Procter – bút danh là Barry Cornwall (1787–1874). Sevilla là thành phố ở Tây Ban Nha. Puskin viết bài này cho vở kịch Vị khách bằng đá.

Я здесь, Инезилья

Я здесь, Инезилья,
Я здесь под окном.
Объята Севилья
И мраком и сном.

Исполнен отвагой,
Окутан плащом,
С гитарой и шпагой
Я здесь под окном.

Ты спишь ли? Гитарой
Тебя разбужу.
Проснётся ли старый,
Мечом уложу.

Шелковые петли
К окошку привесь…
Что медлишь?.. Уж нет ли
Соперника здесь?..

Я здесь, Инезилья,
Я здесь под окном.
Объята Севилья
И мраком и сном.
1830


200.DỊCH BARRY CORNWALL*

Here's a health to thee, Mary**

Anh uống chúc sức khỏe
Cho Mary của anh.
Khóa trái cửa lặng lẽ
Chỉ mình ta với mình
Chúc Mary sức khỏe.

Có thể xinh đẹp hơn
Cả Mary của anh
Cô tiên này nhỏ bé
Nhưng dễ thương không thể
Bằng Mary dịu dàng.

Hãy hạnh phúc nghe em
Mặt trời của đời anh!
Không khổ đau, buồn chán
Không những ngày u ám
Đến trong cuộc đời em.
1830
______________
*Puskin phỏng dịch Song (Here's a health to thee, Mary...) của Barry Cornwall.
**Here's a health to thee, Mary – Chúc sức khỏe em, Mary.

Из Barry Cornwall

Here's a health to thee, Mary

Пью за здравие Мери,
Милой Мери моей.
Тихо запер я двери
И один без гостей
Пью за здравие Мери.

Можно краше быть Мери,
Краше Мери моей,
Этой маленькой пери;
Но нельзя быть милей
Резвой, ласковой Мери.

Будь же счастлива, Мери,
Солнце жизни моей!
Ни тоски, ни потери,
Ни ненастливых дней
Пусть не ведает Мери.
1830


201.TRƯỚC NGÔI MỘ THIÊNG

Trước ngôi mộ thần thánh và thiêng liêng
Tôi đứng yên, mái đầu tôi cúi xuống
Bốn phía ngủ yên, chỉ những ngọn đèn
Trong bóng tối của ngôi đền vàng óng
Những cây cột đá hoa cương to lớn
Những lá cờ treo trên đó thành hàng.

Phía dưới ngủ yên chúa tể oai hùng
Là thần tượng của đội binh phương Bắc
Người canh giữ đáng kính của Đại cường
Người quy phục biết bao nhiêu kẻ địch
Từ bầy chim ưng vinh quang hiển hách
Còn lại đây một ít của Nữ Hoàng.

Trong mồ ông niềm hân hoan đang sống
Ông công bố lời Nga cho chúng ta
Quả quyết với ta trong tháng năm, mà
Giọng tin tưởng của nhân dân lên tiếng
Hướng mái đầu ông bạc trắng gọi to:
“Hãy ra trận!” và ông vào trận đánh… 

Giờ hãy nghe lời chúng tôi trung thực
Hãy đứng lên và hãy cứu Nga hoàng
Ôi, ông già nghiêm khắc! Trong phút chốc
Hãy hiện lên bên ngôi mộ của ông
Hãy đứng lên, khoan khoái và mẫn tiệp
Với những binh đoàn bỏ lại của ông!

Hãy hiện lên và lấy tay của mình
Chỉ cho chúng tôi trong bao tướng lĩnh
Ai thừa kế, ai người ông lựa chọn!
Nhưng ngôi đền – trong im lặng đắm chìm
Vẻ lặng yên của ngôi mồ chiến trận
Rất điềm nhiên trong giấc ngủ vĩnh hằng…
1831
________________
*Bài thơ về Mikhail Illarionovich Kutuzov (1745 – 1813) là một vị Nguyên soái trong lịch sử Nga. Tên tuổi của ông gắn liền với giai đoạn hùng mạnh của Đế quốc Nga vào cuối thế kỷ 18 - đầu thế kỷ 19. Mộ của ông ở trong đền Kazan ở Saint Petersburg.
  
Перед гробницею святой

Перед гробницею святой
Стою с поникшею главой…
Всё спит кругом; одни лампады
Во мраке храма золотят
Столпов гранитные громады
И их знамён нависший ряд.

Под ними спит сей властелин,
Сей идол северных дружин,
Маститый страж страны державной,
Смиритель всех её врагов,
Сей остальной из стаи славной
Екатерининских орлов.

В твоём гробу восторг живёт!
Он русский глас нам издаёт;
Он нам твердит о той године,
Когда народной веры глас
Воззвал к святой твоей седине:
«Иди, спасай!» Ты встал — и спас…

Внемли ж и днесь наш верный глас,
Встань и спасай царя и нас,
О старец грозный! На мгновенье
Явись у двери гробовой,
Явись, вдохни восторг и рвенье
Полкам, оставленным тобой!

Явись и дланию своей
Нам укажи в толпе вождей,
Кто твой наследник, твой избранный!
Но храм — в молчанье погружён,
И тих твоей могилы бранной
Невозмутимый, вечный сон…
1831


202.TIẾNG VỌNG

Thú dữ có gầm rống lên trong rừng
Tù và có thổi, sấm có rền vang
Thiếu nữ sau đồi có cất tiếng hát
Thì với mỗi âm thanh
Phản hồi của anh ở giữa không trung
Anh sinh ra đột ngột.

Anh nghe theo tiếng rầm rầm của sấm
Và nghe theo tiếng sóng, tiếng bão giông
Và tiếng kêu của mục phu trên đồng
Và câu trả lời anh gửi
Không ai bình phẩm gì anh
Thì anh là thi sĩ!
1831

Эхо

Ревет ли зверь в лесу глухом,
Трубит ли рог, гремит ли гром,
Поет ли дева за холмом —
На всякий звук
Свой отклик в воздухе пустом
Родишь ты вдруг.

Ты внемлешь грохоту громов,
И гласу бури и валов,
И крику сельских пастухов —
И шлешь ответ;
Тебе ж нет отзыва... Таков
И ты, поэт!

1831




Thơ Vasily Popov Song Ngữ

Vasily Nikolaevich Popov (sinh năm 1983) – nhà thơ Nga, người lần đầu dịch thành công và đầy đủ Truyện Kiều của Nguyễn Du ra tiếng Nga năm 2015.

Vasily Popov sinh ở thành phố Angarsk, tỉnh Irkutsk, Liên Bang Nga. Tốt nghiệp trường Kinh tế và Quản lý (Angarsk) và trường Viết văn Gorky (Moskva). Tác giả của năm tập thơ (đến thời điểm hiện tại), đã đăng ở nhiều báo và tạp chí của Liên Bang Nga. Vasily Popov từng đoạt nhiều giải thưởng thơ ở Nga và được đánh giá là tài năng trẻ của thi ca Nga. Hiện là thư ký của Hội Nhà văn Nga và sống ở Moskva.

Một số bài thơ

1***
CHẲNG CÓ GÌ TỐT ĐẸP

Chẳng có gì tốt đẹp ở nước Nga
Nhưng tôi tin rằng đấy là số phận.
Đến hơi thở cuối cùng của đời ta
Sẽ kéo dài cuộc đấu tranh thần thánh.

Nhưng không mài kiếm để vào trận đánh
Và không đem lắp vào súng đạn chì
Mà ta đem đọc những lời cầu nguyện
Làm dấu con đường theo thập ác kia.

Ta đem trồng cây cối khắp trên đồng
Để rừng lớn lên như người lính vậy
Để kẻ thù lạc lối và nhận thấy
Chẳng có điều kỳ diệu ở trần gian.

Đấy là những gương mặt ta đã khóc
Trên bầu trời mà chẳng dưới đáy kia
Và không một ai trong số chúng ta
Sợ điều gì và bước đi trên nước.

***
Да, я знаю, Россия, всё плохо,
Но я верю, что это судьба.
До последнего нашего вздоха
Будет длиться святая борьба.

Но ни меч мы готовим для битвы,
Ни ружьё заряжаем свинцом,
Мы читаем Иисусу молитвы,
Осеняя дорогу крестом.

Мы сажаем деревья на поле,
Чтобы вырос, как воины – лес,
Чтобы враг заблудился и понял –
Не бывает на свете чудес.

Это наши заплакали лица
На иконах, на небе, не дне.
И никто из нас не побоится
Сделать шаг, и пойти по воде.



2***
NHÀ TÔI

Gửi bố
Nhà tôi: ngôi nhà gỗ
Thanh lương  trà bên cửa.
Mưa nhồi đất như dầu
Bằng lưỡi ướt của nó.

Nhà tôi: là phần khổ
Hạnh phúc – đá và mương
Nơi ngọn gió đại dương
Thổi lên từ hoa cỏ.

Nhà tôi: mèo và chó
Ngựa quí, bò và chim.
Nơi hoàng hôn màu xanh
Trên đồng làm chúng sợ.

Nhà của tôi chẳng cần
Mái màu hồng, cửa sáng
Đối với tôi phần thưởng
Nghe tiếng chuột nghiến răng.

Nghe khúc hát bạch dương
Tiếng hát người lính thợ.
Ngắm mặt trời màu đỏ
Khi đi vào hoàng hôn.

Con đường vào nhà tôi
Đi giữa rừng cây cối
Nơi người ta tin Chúa
Không để nước mắt rơi

***
Вот мой дом: изба да прясло,
Да рябина под окном.
Там где землю дождь как масло,
Месит мокрым языком.

Вот мой дом: частица горя,
Ну а счастья - камни, рвы.
Там где ветер волны моря,
Выдувает из травы.

Вот мой дом: коровы, птицы,
Добрый конь, собака, кот.
Там где синий свет зарницы,
На лугах пугает скот.

Вот мой дом и мне не надо,
Светлых окон, ярких крыш.
Для меня одна награда,
Слушать, как скребётся мышь.

Слушать песню под берёзой,
Что поёт кузнец-солдат.
Видеть солнце красной розой,
Уходящее в закат.

И ещё мой дом дорога,
Между сосен и берёз.
Там где люди верят в Бога,
Не бросая наземь слёз.


3***
HÒN THAN NHỎ

Hòn than nhỏ trong lò đang cháy hết
Ngày mai đây tôi lại nhóm bếp lò
Tôi một mình, nhưng mà không đơn độc
Tôi yêu đời, yêu cả thế giới kia.

Đời hãy ngủ yên, có tôi canh giữ
Trong bóng đêm tôi ngó giữa trời xa
Tôi không đòi hỏi thêm điều gì cả
Mà đưa tay tôi vốc một nắm tro.

***
Догорает в печке уголёк,
Завтра снова печку затоплю.
Я один, но я не одинок,
Я люблю, весь этот мир люблю.

Засыпай, а я посторожу,
В темноту на небо погляжу,
Ничего я больше не спрошу,
Веточкой золу поворошу.


4***
NHỮNG CHIẾC LÁ

Những chiếc lá đã vàng úa trên cây
Mùa thu đến ngây thơ và sáng sủa
Em thấy không, em yêu, anh lúc này
Hiểu rằng tuổi trẻ đã không còn nữa.

Mọi thứ đều tốt đẹp, em yêu ạ
Còn thời gian – chỉ vớ vẩn mà thôi
Vẫn lớn lên từng ngày bầy em nhỏ
Rồi đến trường – bầm tím, nước mắt rơi.

Đời vẫn trôi đều đều và lặng lẽ
Như gia đình thầm lặng khó nhận ra.
Thì cứ lang thang nơi nào ngọn gió
Đấy mới là hạnh phúc đó em à.

Anh sắp sửa bốn mươi, và có lẽ
Đã không còn kinh ngạc một điều chi…
Chỉ một điều, quả thật, làm anh sợ
Rằng lại yêu như tuổi trẻ ngày xưa.

***
Пожелтели листья на деревьях,
Осень так наивна и светла.
Видишь ли, любимая, теперь я,
Понимаю – молодость прошла.

Всё у нас с тобою, дорогая,
Хорошо, а время – пустяки.
Ребятишки наши подрастают,
В школу ходят – слёзы, синяки.

Жизнь идёт размеренно  и тихо,
В общем, неприметная семья.
И пускай гуляет где-то вихрь –
Это счастье милая моя.

И уже мне сорок, и наверно,
Ничему я так не удивлюсь…
Одного боюсь я откровенно,
Что опять, как юноша влюблюсь.


5***
MỖI NGƯỜI YÊU MỖI CÁCH

Mỗi người có thể yêu theo mỗi cách
Chẳng ai ngăn, chẳng có giới hạn nào
Và có thể đi trên lưỡi của dao
Cắt đứt tình cảm của bao người khác.

Có thể bằng lời làm cho tình chết
Rồi bằng thơ làm cho nó hồi sinh
Có thể yêu từ cái nhìn đầu tiên
Ngay cả khi điều này không hề biết.

* * *
Каждый по-своему может любить:
Нет ни границ, ни запретов.
Можно по лезвию бритвы ходить,
Чувства других изрезав.

Можно любовь и словами убить,
А возродить куплетом.
Можно и с первого взгляда любить
Даже не зная об этом.


6***
CON TIM ĐANG GIÓNG

Gửi Alexey Rudevich

Có phải trong ngực con tim đang gióng
Hay đấy là cái chết đập cửa chăng.
Giọng của tôi hãy còn chưa tin rằng
Trong lòng tôi vang lên điều im lặng.

***
Алексею Рудевичу

Сердце ли в груди стучит
Или это смерть стучится в двери.
Голос мой ещё не верит
В то, что тишина во мне звучит.



7***
ĐỂ LÀM GÌ

Bạn đã sống, đã tin, đã khổ đau để làm chi vậy?
Và bạn đã từng đòi hỏi điều chi ở cuộc đời kia?
Đừng nói gì, nhưng hãy tin ở một điều này:
Có giọng nói của bạn cho dù trong yên lặng.

***
Зачем ты жил, страдал и верил?
Чего ты требовал от жизни той?
Не говори, но будь уверен:
И в тишине есть голос твой.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét