223.LÊN ĐỒI SI-ÔN
Thật uổng công khi tôi chạy lên đồi Xi-ôn
Tội tham lam đuổi theo tôi sau từng bước chân…
Lỗ mũi dính đầy bụi khi chúi vào cát xốp
Sư tử đói nhìn theo bước chân nai tỏa mùi thơm.
1836
______________
*Bài thơ nói về những lỗi lầm mà nhân vật đang chịu đựng và mong được làm thanh sạch tâm hồn.
Напрасно я бегу к сионским высотам
Напрасно я бегу к
Сионским высотам,
Грех алчный гонится за мною по пятам…
Так, ноздри пыльные уткнув в песок сыпучий,
Голодный лев следит оленя бег пахучий.
Грех алчный гонится за мною по пятам…
Так, ноздри пыльные уткнув в песок сыпучий,
Голодный лев следит оленя бег пахучий.
начало июля 1836
224.NƯỚC CÀNG SÂU DƯỚI ĐÁY
Nước càng sâu dưới đáy
Dòng chảy càng êm đềm
Con người càng thông thái
Càng sống đời lặng yên.
1836
Воды глубокие
Воды глубокие
Плавно текут.
Люди премудрые
Тихо живут.
1836
225.ÁNH MẮT CỦA LAYLA
Ánh mắt của Layla
Hững hờ nhìn đâu đấy
Tôi bảo: “Em hãy đợi”
Nàng đáp lại lời tôi:
“Đầu anh bạc trắng rồi”
Tôi cười và đáp lại:
“Mọi thứ đều có thời!
Xạ hương đen ngày ấy
Thành băng phiến giờ đây”.
Nhưng Layla vớt lại
Lời nói trong tiếng cười
Và bảo: “Anh biết rồi
Xạ hương cho rể mới
Băng phiến cho quan tài”.
1836
_____________
*Bài thơ này Puskin mô phỏng một bài hát Ả Rập in trong tập Mélanges de Littérature Orientale et Française (Hợp tuyển thơ Phương Đông và thơ Pháp).
От меня вечор Леила
От меня вечор
Леила
Равнодушно
уходила.
Я сказал:
«Постой, куда?»
А она мне
возразила:
«Голова твоя
седа».
Я насмешнице
нескромной
Отвечал: «Всему пopa!
То, что было
мускус темный,
Стало нынче
камфора».
Но Леила
неудачным
Посмеялася речам
И сказала:
«Знаешь сам:
Сладок мускус
новобрачным,
Камфора годна
гробам».
1836
226.TÔI DỰNG TƯỢNG CHO MÌNH
Exegi monumentum*
Tôi sẽ dựng cho mình một bức tượng tự
nhiên
Mà sẽ không cần đến những đoàn dân
chúng
Và bức tượng bằng cái đầu kiêu hãnh
Cao hơn cả cột đá Aleksandr**.
Không, tôi không chết – hồn trong thơ
kín thầm
Tro của tôi sẽ sống qua và phù vân chạy
trốn
Và tôi sẽ vinh quang cho đến một khi
còn sống
Dù chỉ một nhà thơ ở cõi trần gian.
Tin về tôi sẽ bay khắp nước Nga rộng
mênh mông
Người ta sẽ gọi tên tôi bằng biết bao
ngôn ngữ
Người Slavơ, người Phần Lan và dù còn
hoang dã
Người Tungus, người Kalmyk – bạn của
thảo nguyên.
Sẽ mãi còn đây lòng yêu mến của nhân
dân
Bằng thơ ca tôi đã từng thức dậy điều
tốt đẹp
Đã ca ngợi tự do trong thế kỷ đầy khắc
nghiệt
Và đã gọi ban ơn cho những kẻ khốn
cùng.
Nàng thơ hãy biết nghe theo lời của
Chúa răn
Đừng sợ chi giận hờn, đừng đòi chi
vương miện
Hờ hững trước lời khen hoặc trước điều
vu khống
Chớ đôi co với những kẻ ngu đần.
1836
________________
*Exegi monumentum (tôi dựng tượng cho mình - trích từ thơ của Horatius)
**Cột đá Aleksandr (Александрийский столп - Александровская колонна) – tượng đài của Aleksandr I bằng đá hoa cương nguyên khối cao 47, 5 m ở Quảng trường Cung điện, Saint Petersburg. Pushkin so sánh giá trị của tinh thần và vật chất, thơ ca sống động và cột đá chết để nói lên giá trị nghệ thuật của thi ca.
Я памятник себе воздвиг нерукотворный
Exegi monumentum
Я памятник себе воздвиг нерукотворный,
К нему не заростет народная тропа,
Вознесся выше он главою непокорной
Александрийского столпа.
Нет, весь я не умру — душа в заветной лире
Мой прах переживет и тленья убежит —
И славен буду я, доколь в подлунном мире
Жив будет хоть один пиит.
Слух обо мне пройдет по всей Руси великой,
И назовет меня всяк сущий в ней язык,
И гордый внук славян, и финн, и ныне дикой
Тунгуз, и друг степей калмык.
И долго буду тем любезен я народу,
Что чувства добрые я лирой пробуждал,
Что в мой жестокой век восславил я Свободу
И милость к падшим призывал.
Веленью божию, о муза, будь послушна,
Обиды не страшась, не требуя венца,
Хвалу и клевету приемли равнодушно,
И не оспоривай глупца.
Вознесся выше он главою непокорной
Александрийского столпа.
Нет, весь я не умру — душа в заветной лире
Мой прах переживет и тленья убежит —
И славен буду я, доколь в подлунном мире
Жив будет хоть один пиит.
Слух обо мне пройдет по всей Руси великой,
И назовет меня всяк сущий в ней язык,
И гордый внук славян, и финн, и ныне дикой
Тунгуз, и друг степей калмык.
И долго буду тем любезен я народу,
Что чувства добрые я лирой пробуждал,
Что в мой жестокой век восславил я Свободу
И милость к падшим призывал.
Веленью божию, о муза, будь послушна,
Обиды не страшась, не требуя венца,
Хвалу и клевету приемли равнодушно,
И не оспоривай глупца.
21 августа 1836
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét